第九景-雲山勝蹟

樍翠巑岏不計春,
蚪龍隱伏列嶙峋。
惠風鐘度幽林響,
空谷香羅法海津。
樹戀慈雲浮碧落,
徑穿僧屐雜紅塵。
聖緣普濟咸歸善,
佛蹟增光自有人。

 

Đệ cửu cảnh - Vân Sơn thắng tích

Tích thuý toàn ngoan bất kế xuân,
Đẩu long ẩn phục liệt lân tuân.
Huệ phong chung độ u lâm hưởng,
Không cốc hương la pháp hải tân.
Thụ luyến từ vân phù bích lạc,
Kính xuyên tăng kịch tạp hồng trần.
Thánh duyên phổ tế hàm quy thiện,
Phật tích tăng quang tự hữu nhân.

 

Dịch nghĩa

Núi non phủ đầy cây xanh đã quá lâu đời,
Trập trùng lớp lớp như con rồng nằm nép.
Theo gió lành tiếng chuông truyền đến chốn rừng thanh tĩnh,
Hương thơm trên không đã bao trùm khắp bến pháp.
Mây lành quấn quýt trong cây và nổi giữa trời cao,
Guốc của tăng nhân xuyên qua những lối đi lạc vào cõi hồng trần.
Duyên của thánh ban khắp cho người quy về nẻo thiện,
Nhờ nhân lành mà cảnh chùa xưa càng thêm rực rỡ.


Bài thơ được vua Thiệu Trị làm nhân một lần đến chùa Thánh Duyên chiêm bái, và được khắc trên một bia đá tại chùa này. Chùa toạ lạc trên núi Thuý Vân, gần cửa biển Tư Hiền cách thành phố Huế khoảng 40km về phía nam. Chùa do vua Minh Mạng (1820-1840) vẽ kiểu xây dựng, khánh thành vào mùa xuân năm Đinh Dậu (1837).

Lời dẫn: “Thuý Vân sơn: Tủng thuý sầm khâm hư thanh phân úc, ngoại lâm Minh bột, nội khám Hải nhi. Tịnh thổ phạm cung, Phật nhật tăng huy vu tứ đại; ma không cổ tháp, pháp luân thường chuyển vu tam thiên. Thuý trúc trường tùng, tín thị linh sơn Thứu Lĩnh; hoàng hoa tế thảo, nghiễm nhiên hương quốc Kỳ Viên. Thanh u chi tự tại thiên, cực lạc chi từ bi cảnh. Thị vi Thần kinh chi đệ cửu danh thắng dã.” 翠雲山:聳翠岑嶔嘘青紛郁,外臨溟浡,内瞰海兒。淨土梵宫,佛日增輝于四大,摩空古塔,法輪常轉于三天。翠竹長松,信是靈山鷲嶺,黄花細草,儼然香國祇園。清幽之自在天,極樂之慈悲境。是爲神京之第九名勝也。 (Núi Thuý Vân: Sừng sững, xanh tốt rườm rà, ngoài ra biển cả, trong ngó đầm sâu. Cung phạm đất lành, ngày Phật sáng soi nơi tứ đại; ven trời tháp cổ, bánh xe quay mãi chốn tam thiên. Tre thắm thông cao, đấy hẳn non thiêng Thứu Lĩnh; hoa vàng cỏ mượt, rõ kia cõi bụt Kỳ Viên. Cảnh trời tự tại thanh u; vùng đất từ bi cực lạc. Ấy là danh thắng thứ chín ở chốn thần kinh vậy.)

Lạc khoản: “Thiệu Trị tam niên nhuận thất nguyệt cát nhật. Cung thuyên ngự chế thi nhất thủ.” 紹治三年閏七月吉日。恭鐫御製詩一首。 (Ngày tốt tháng Bảy nhuận năm Thiệu Trị thứ 3 (1843). Kính khắc một bài thơ vua làm.)

Núi là Thuý Vân, tục gọi là Tuý Vân, ngày nay thuộc vào địa phận hai làng Đông An và Hiền Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, cách thành phố Huế khoảng 30km về phía đông nam. Đây là một hòn núi có hình dáng tròn trịa, xinh xắn, nằm ngay ven bờ đầm Cầu Hai. Tuy không lớn nhưng từ xa trông lại đã thấy Thuý Vân nổi bật lên giữa khung cảnh non nước hữu tình của miền đầm phá. Theo các sử sách của triều Nguyễn, trước kia núi Thuý Vân gọi là núi Mỹ Am, trên núi có chùa Thánh Duyên. Người ta không rõ chùa xây dựng tự bao giờ, chỉ biết từ mùa xuân năm Nhâm Thân (1692), chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho tu sửa sơn son thếp vàng ngôi chùa cũ trên núi để cầu phúc cho dân, trải qua chiến tranh và thời gian tàn phá chùa lại bị đổ nát. Năm 1825, trong một lần ngự giá đến cửa biển Tư Hiền, vua Minh Mạng đã đổi tên núi thành Thuý Hoa và cho trùng tu chùa. Đến năm 1836, nhà vua lại quyết định cho “đại trùng kiến” toàn bộ chùa Thánh Duyên. Sau khi xây lại, quy mô của chùa gồm một toà điện chính 3 gian, 2 chái toạ lạc gần chân núi. Ở lưng chừng núi là gác Đại Từ, 2 tầng, tầng dưới 3 gian 2 chái, tầng trên 3 gian. Xung quanh gác có tường bao bọc, mặt trước có nghi môn. Trên đỉnh núi là tháp Điều Ngự 3 tầng, cao 3 trượng 6 thước 9 tấc (khoảng 15m). Năm 1837, ở bên trái điện chính của chùa có dựng thêm một tăng xá 3 gian 2 chái để làm chỗ ăn ở cho các nhà sư. Ngoài ra còn có 2 nhà bếp, mỗi nhà đều 1 gian. Đầu thời Thiệu Trị, núi Thuý Hoa được đổi tên thành núi Thuý Vân do kiêng tên huý của hoàng thái hậu Hồ Thị Hoa mẹ vua Thiệu Trị. Từ đó trở về sau, chùa Thánh Duyên còn được tu sửa nhiều lần nữa, nhưng đến ngày nay thì chùa đã ở trong tình trạng xuống cấp hết sức nghiêm trọng, cảnh trí tiêu điều vì ít được chăm sóc.

Dưới thời vua chúa Nguyễn, chùa Thánh Duyên là một trong những đại danh lam, được xếp vào hàng quốc tự của Huế (Thiên Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế,...). Nhiều vị cao tăng nổi tiếng như hoà thượng Liễu Đạo Chí Tâm, Tánh Khoát Huệ Cảnh, Tánh Thông Nhất Trí, Vĩnh Thừa, Giác Nhiên,... đã được cử đến đây để đảm nhận ngôi vị trụ trì. Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên cũng được xem là một trong những thắng cảnh bậc nhất của đất thần kinh. Các chúa và sau này là các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn cảnh sắc và đã làm rất nhiều thơ phú để ca ngợi... Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả có lẽ vẫn là vua Thiệu Trị với bài thơ này. Điều đáng nói thêm là dưới thời Nguyễn, toàn bộ cảnh chùa và núi đã được vẽ vào đồ sứ men làm cùng 4 câu thơ thực và luận của bài thơ này.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Đình Sơn

Vòi vọi non xanh nước mấy xuân
Rồng thiêng nương náu chốn hang thần
Gió Thiền chuông điểm rừng sâu dội
Cõi Diệu hương đưa biển pháp nhuần.
Cây vướng mây lành lên cảnh Bụt
Đường xuyên guốc sãi lấm hồng trần
Duyên vua rưới khắp đời quy thiện
Dấu Phật huy hoàng hẳn có nhân

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Ba xuân sừng sững sắc xanh đông,
Ẩn náu quanh co những rắn rồng.
Rừng thẳm chuông ngân theo gió huệ,
Biển thiêng hương thoảng tự hang không.
Mây lành cây quyện lưng trời biếc,
Guốc sãi đường qua giữa bụi hồng.
Duyên thánh dắt người về nẻo thiện,
Chứng nhân, dấu Phật rõ ràng trông.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung

Cây phủ non xanh tự thuở nào,
Trập trùng bao lớp tựa long chầu.
Chuông ngân cậy gió thêm linh nghiệm,
Hương toả nương mây thật nhiệm mầu.
Quẩn quanh trời rộng mây ngàn phủ,
Vương vấn hồng trần tiếng guốc xao.
Toả sáng thánh duyên muôn nẻo thiện,
Nhân lành thêm rực cảnh chùa cao.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời