Đăng bởi nguyễn thế trung vào 08/01/2006 14:57
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 31/01/2006 10:03
Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) - người làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Tây) - được coi là nhà thơ, nhà văn, nhà báo tiêu biểu trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20. Với những bài thơ có tư tưởng cách tân, vượt ra ngoài lối thơ niêm luật gò bó, Tản Đà là người mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Ông có thơ ngông, thơ buồn, thơ say, thơ lãng mạn... nhưng tất thảy đều thể hiện tấm lòng yêu nước thương nòi. Tản Đà cũng là người đóng vai trò khai sáng và tiên phong trong văn xuôi nghệ thuật.
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, nay thuộc xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Ông sinh năm 1889, mất năm 1939. (1)
Cha ông là Nguyễn Danh Kế, đậu cử nhân thời Tự Đức, được bổ tri huyện, tri phủ, rồi án sát, nên ông được “tập ấm”, thường gọi là Ấm Hiếu. Mẹ ông là một đào nương nổi tiếng tài sắc ở phố Hàng Thao, Nam Thành, lấy lẽ thứ ba ông Nguyễn Danh Kế và Ấm Hiếu là con thứ tư, mà cũng là con út của bà.
Năm Ấm Hiếu lên ba tuổi thì bố mất, sau đó mẹ ông lại trở về nghề cũ. Từ bấy giờ, ông được người anh cùng cha khác mẹ là Giáo thụ Nguyễn Tài Tích nuôi dưỡng.
Theo tác phẩm Giấc mộng lớn, một cuốn tự truyện của Tản Đà, đồng thời là cuốn tự truyện đầu tiên của văn học Việt Nam, thì ông đã thi hỏng luôn hai khoá ở trường Nam (trường thi Nam Định). Sau lần hỏng thi khoa Nhâm Tý (1912), ông mới thôi nghề khoa cử. Lúc này, ông có dịp được đọc các tân thư Trung Quốc dịch của người Thái Tây (2) và rất ham đọc báo chí Trung Quốc. Sự nghiệp làm báo của Tản Đà bắt đầu được khơi gợi từ đây. Chính trong Giấc mộng lớn, ông đã viết: “Ngoài sự làm văn thơ, chỉ mê thiết xem các thứ nhật trình Tàu. Cảnh ngộ vô tình mà cái cơ duyên báo chí sau này cũng phát đoan (3) từ đấy”. Trong thời kỳ này, Tản Đà còn được người anh rể Nguyễn Thiện Kế dìu dắt vào con đường văn chương. Nguyễn Thiện Kế từng làm tri huyện Tùng Thiện và Phúc Thọ của xứ Đoài, vốn là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng đương thời, lại là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20, thường làm thơ đả kích táo bạo bọn quan lại cao cấp, tay sai của thực dân Pháp. Trong Giấc mộng lớn, Tản Đà tỏ ra hết sức kính phục tài văn chương của quan huyện Nguyễn Thiện Kế, gọi ông là đại thi hào, đồng thời cũng ghi nhận ảnh hưởng của nhà thơ này đối với mình: “Cái sinh nhai quốc văn của mình có hay hơn mười năm nay, thực từ trong lúc thanh niên, có quan huyện - Nguyễn Thiện Kế, phát đoan, dẫn đạo”.
Tác phẩm đầu tiên của Tản Đà được công bố trước công chúng là những bài tản văn đăng ở Đông Dương tạp chí, năm 1915. Văn của Tản Đà ngay từ khi ra mắt bạn đọc đã nổi tiếng, đến mức Đông Dương tạp chí phải mở riêng một mục là Tản Đà văn tập chuyên đăng tải văn của ông, và Toà soạn đã ghi nhận xét rằng: “Bản quán duyệt qua tập văn ấy, thì thấy ông Nguyễn Khắc Hiếu cũng là một văn sĩ có biệt tài, có lý tưởng riêng, ngắm cảnh vật một cách kỳ khôi, lạ thay cho một bậc thiếu niên!”
Và suốt từ đó cho đến năm 1939 là năm Tản Đà mất, ông đã sáng tác liên tục không mệt mỏi một khối lượng đồ sộ gồm đủ loại thơ, văn, truyện, ca kịch, các làn điệu dân ca, từ khúc, diễn ca, dịch văn học cổ điển Trung Quốc như thơ Đường và Kinh Thi, chú giải Truyện Kiều... Hiện nay, giới khoa học đã sưu tập được khoảng trên 30 tác phẩm gồm các văn tập, thi tập của ông như: Khối tình con, Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Còn chơi; Thơ trên các báo và An Nam tạp chí, Thần tiền, Lên sáu, Lên tám, Tản Đà tản văn, Tản Đà tùng văn, Truyện thế gian, Nhàn tưởng, Thơ Tản Đà, v.v.
Điều lạ kỳ là Tản Đà là người học chữ Hán, theo lối học cử nghiệp, vốn quen thuộc với văn sách, với phú, với lối văn tứ lục, với thơ luật Đường... thế mà ông viết văn xuôi lại rất hay, rất sắc sảo, rất nhuần nhuyễn, thuần thục. Năm 1916, khi tác phẩm Giấc mộng con I ra đời, Dương Bá Trạc đề tựa cho Tản Đà đã phải khen: “Mới mươi mười lăm năm nay, sĩ phu trong nước mới có cái khuynh hướng về văn quốc âm, giọng Hàn Thuyên, hồn Đại Việt đã lập loè một tia lửa sáng xuất hiện trong văn giới hoàn cầu. Ông Nguyễn Khắc Hiếu, Sơn Tây, chính là một tay kiện tướng trên trường hàn mặc ấy!”. Giấc mộng con I cũng như Giấc mộng con II là hai tập du ký tưởng tượng, có thể coi đây là tiểu thuyết viễn tưởng của Tản Đà. Ở Giấc mộng con I, Tản Đà chỉ lấy tư liệu trên báo chí mà tả lại những nơi danh thắng trên thế giới, như thác nước Niagara ở Canada, đền Taj-Mahal ở ấn Độ, Kim Tự Tháp ở Ai Cập..., thế mà ông miêu tả sống động, hứng thú y như là chính mình đã tới chơi những nơi đó thật. Ở Giấc mộng con II, ông kể chuyện cuộc chơi lên thiên đình, gặp các danh nhân lịch sử thế giới và Việt Nam, như Lư Thoa (J.J.Rousseau), Đông Phương Sóc, Khổng Tử, Hàn Thuyên, Nguyễn Trãi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi... Qua hai cuộc viễn du tưởng tượng, tác giả muốn đưa mọi người đến những thế giới lý tưởng, diệu kỳ, đến với những cảnh sắc tươi đẹp, gặp gỡ những nhân vật tài hoa. ở đó chỉ có cái đẹp, cái cao thượng, tình yêu thương và lòng tôn trọng lẫn nhau, khác hẳn cái xã hội xấu xa nơi trần giới. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực phê phán lại vừa có ý nghĩa lãng mạn, thể hiện những ước vọng nhân văn của tác giả.
Tản Đà là người thích mở rộng, và có một trí tưởng tượng rất phong phú, song nhiều khi mơ mộng, tưởng tượng chỉ là những yếu tố thi pháp trong cá tính sáng tạo của ông, và điều đó không hề làm giảm giá trị phản ánh hiện thực xã hội và ý nghĩa phê phán của tác phẩm. Trường hợp tiểu thuyết Thần tiền chẳng hạn, là như vậy. ở đấy, với giọng văn châm biếm hài hước, tác giả đã mượn lời hai chị em đồng tiền nói với nhau để tố cáo thói ăn tiền bẩn thỉu của bọn quan lại: “Khi đã vào trong cửa quan, trên thời quan nha, dưới thời lính tráng, dân sự, mà các ông ấy để mình nằm trần truồng ra trước công đường. Lúc ấy thẹn phải chết... Ngồi đấy, rồi thấy quan cũng thét mắng luôn, nhưng về các dân sự chứ không phải là quát mắng mình, mà mình thỉnh thoảng thấy quan nhìn mình thời nó như có ý thương yêu lắm!”. Cách kể chuyện như vậy thật là hóm hỉnh và hấp dẫn.
Tuy nhiên, trong nhiều bài văn ngắn, tuỳ bút, bút ký, nghị luận, ngọn bút Tản Đà có khi chẳng cần bóng gió mà đả kích trực diện vào bọn quan lại bất lương, vào tầng lớp trên vô liêm sỉ, đồng thời tỏ ý bênh vực những người nghèo khổ, lương thiện, ca ngợi lòng yêu nước, thương nòi. Chẳng hạn trong tạp văn “Thế nào là hạng người hạ lưu trong xã hội”, đăng ở Đông Pháp thời báo năm 1927, Tản Đà viết: “Nay nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mề đay kim khánh mà gian tham, xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương, hút máu mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, hiến vợ con cho người ta để giữ bền phú quý, như thế có phải là hạng người hạ lưu hay không?”. Hoặc một đoạn khác ông viết: “Nếu trong hạ đẳng xã hội ta mà có những ai biết thờ cha kính mẹ, yêu nước thương nòi, thời tức là người thượng lưu vậy”. Tác giả lấy đạo đức con người mà không lấy sự giàu nghèo làm tiêu chuẩn để phân biệt thượng lưu, hạ lưu. Trong xã hội phong kiến thực dân, đạo đức suy đồi, luân thường đảo ngược, cái ác đang ngự trị, cái lợi cái danh đang chi phối cuộc sống mà Tản Đà lại công nhiên viết trên báo như vậy, há chẳng phải là một nhà văn, nhà báo đầy khí phách, đầy dũng khí? (Chính vì vậy mà bọn quan lại thực dân phong kiến đã tỏ ra không ưa ông, thường để ý xét nét, rình rập ông; điều này ông có ghi rõ trong tập Giấc mộng lớn).
Văn xuôi Tản Đà còn có những thiên tuỳ bút, bút ký, tiểu phẩm, chan chứa tình cảm nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện sự thông cảm sâu sắc với những nỗi khổ nhục của đồng bào trong kiếp sống nô lệ, lầm than. Đó chính là loại văn mà Tản Đà gọi là văn vị đời. Các bài Cảnh nhà nghèo lấy vợ, Cảnh túng đi vay tiền... là những tác phẩm như vậy.
Nhìn chung, văn xuôi Tản Đà đã đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội đương thời, bằng một lối văn giàu tính nghệ thuật, hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ, có bản lĩnh, bản sắc riêng.
Có thể thấy rằng đó là thời điểm quốc văn mới phôi thai, mới bắt đầu, mà lại là văn xuôi nghệ thuật, thì mới thấy hết vai trò khai sáng và tiên phong của Tản Đà.
Trong lĩnh vực thi ca cũng vậy, thơ Tản Đà là thứ thơ có bản lĩnh, bản sắc riêng, không lẫn vào đâu được. Song giá trị lớn lao và đặc sắc hơn cả cũng vẫn là ở vị trí dẫn đạo của ông trên thi đàn đầu thế kỷ. Mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh và Hoài Chân trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà đã viết những lời trân trọng: “... Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn 20 năm trước, đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kỳ đang sắp sửa”. Trước đó, trong tuần báo Ngày nay (số ra ngày 17-6-1939), Xuân Diệu, một người say mê thơ Tản Đà từ nhỏ, cũng đã viết: “Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại”.
Đương nhiên, Tản Đà chưa phải là một nhà thơ mới như các nhà thơ mới lớp sau ông. Nhưng rõ ràng, ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có nhiều tìm tòi, sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ:
Lá đào rơi rắc lối Thiên ThaiTrong thời buổi mà lối thơ niêm luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ như bài Tống biệt này của Tản Đà quả thật là mới, rất mới!
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh,
Một phút trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt
Nước chảy hoa trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
(Tống biệt)
Trời sinh ra bác Tản Đà,Loại thơ phóng túng của Tản Đà còn nhiều, đọc những bài như thế, có thể liên tưởng đến giọng thơ Nguyễn Công Trứ, Tú Xương... Song cũng đúng như các tác giả Thi nhân Việt Nam đã nhận xét: “Cái dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không bao giờ có vẻ vay mượn”. Cái phóng túng, cái ngang tàng ấy chính cũng là cái ngông mà Tản Đà đã tự nhận:
Quê hương thời có cửa nhà thì không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ,
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...
(Thú ăn chơi)
Vùng đất Sơn Tây này một ông,
Tuổi chưa bao nhiêu văn rất hùng,
Sông Đà núi Tản ai hun đúc,
Bút thánh câu thần sớm vãi vung...
Bởi ông hay quá ông không đỗ,
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông!
(Tự trào, sau khi hỏng thi ở trường Nam Định, 1912)
Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi,
Bán áo mà mua giấy viết ngông.
(Dạm bán áo đoạn)
Khi làm chủ báo, lúc viết mướn,Đi liền với cái ngông là cái say, nhưng đó không phải là cái say ẩm thực tầm thường, mà là cái say của tao nhân mặc khách, cái say vì nhân thế, vì cảnh đời:
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng...
Trần gian thước đất vẫn không có,
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông
Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc,
Chán cả giang hồ, hết cả ngông
(Tiễn ông Công lên trời)
Cảnh đời gió gió, mưa mưa,Và đã say không phải vì rượu mà vì đời, vì thế sự thì thật khó dứt cơn say:
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?
(Thơ rượu)
Say sưa nghĩ cũng hư đời,Nhưng bao trùm và sâu lắng trong hồn thơ Tản Đà vẫn là cái điệu buồn vẩn vơ, cái nỗi sầu man mác và cái tình bâng khuâng, những yếu tố muôn đời của chủ nghĩa lãng mạng, nhưng lại chỉ riêng có ở Tản Đà, và đó là chủ nghĩa lãng mạng Tản Đà, nếu có thể gọi được như thế!
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười.
(Lại say)
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần giới em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơị
(Muốn làm thằng Cuội)
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
(Vô đề)
Làn cây khuất bóng trăng tà,Và đây là một bài thơ thu nổi tiếng mà chính Tản Đà đã chọn để mở đầu các giờ giảng văn ở trường Hồng Bàng, Hà Nội, bài Cảm thu, tiễn thu:
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người,
Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ.
(Nhớ ai)
Từ vào thu đến nay,Tản Đà ngông, Tản Đà say, Tản Đà buồn, Tản Đà mơ mộng, có lẽ cũng chỉ là một phần cảm của ông trước buổi giao thời “gió Á mưa Âu”, cái thời mà chỉ thấy:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh,
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà,
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lý tha hương,
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai...
Luân thường đổ nát, phong hoá suy,Còn trong thực tế, Tản Đà không phải là con người thoát ly, nhắm mắt trước thời cuộc. Thơ ông cũng không hiếm những bài hướng vào hiện thực xã hội, bộc lộ những tình cảm yêu nước, thương nòi:
Tiết nghĩa rẻ rúng, ân tình ly...
(Trần ai tri kỷ)
Này những ai, này những ai,Và nói như Nguyễn Đình Chiểu: “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”. Tản Đà hay thương dân nên cũng hay ghét bọn tham quan ô lại hại dân, hại nước:
Ai có nghe rằng việc thuỷ tai,
Tỉnh Bắc, tỉnh Đông cùng tỉnh Thái,
Ruộng ngập nhà chìm thây chết trôi...
Lệ đầy vơi, tình chia phôi,
Bồng bế con thơ bán khắp nơi
Năm hào một đứa trẻ lên sáu,
Cha còn sống đó, con bồ côi
(Khuyên người giúp dân lụt)
Cũng phường dối nước quân ăn cắp,
Cũng lũ tàn dân giống hại đàn.
Lạnh lẽo hơi sương toà Tạp chí
Lệ ai giàn giụa với giang san.
(Cảm đề)
Đục nước năm nay cò lại béo,Tản Đà rất ghét bọn ăn hối lộ, ông được biết chuyện Tuần phủ Vĩnh Yên là Đào Trọng Vận nhân một vụ kiện tranh chấp gia tài đã ăn của đút gần ba nghìn đồng, ông đã gợi ý cho Ngô Tiếp viết truyện Tờ di chúc để tố giác vụ này, rồi ông lại viết bài thơ Cảm đề cho tiểu thuyết này với một giọng châm biếm khá sâu cay, chua chát:
Bao nhiêu đê vỡ bấy nhiêu tiền
(Nhớ cảnh nước lụt ở Bắc)
Hơi đồng đã sạch mồm ông lớnLà một người dân mất nước, lo cho vận mệnh của Tổ quốc, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của những phong trào yêu nước những năm đầu thế kỷ, Tản Đà có những vần thơ cảm khái, nói đến các anh hùng dân tộc, nói đến dân vong quốc, nói đến nòi giống Tiên Rồng... thể hiện tư tưởng yêu nước một cách kín đáo. Tiêu biểu cho dòng thơ này của Tản Đà là bài Thề non nước, một bài thơ đã đi sâu vào lòng người và được lưu truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân:
Mặt sắt còn bia miệng thế gian,
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm quan...
Nước non nặng một lời thề,Riêng ở xứ Đoài, bài thơ này cũng như nhiều bài phong dao của Tản Đà từ lâu đã trở thành những bài hát ru quen thuộc, như những bài hát dân gian.
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước không nguôi lời thề
Đăng bởi hoalucbinh vào 16/05/2006 09:37
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 16/05/2006 10:01
Khi quan tri phủ Nguyễn Danh Kế đáo nhậm án sát tỉnh Ninh Bình thì Tản Đà cất tiếng khóc chào đời tại đây. Sang năm sau, thân mẫu Tản Đà hạ sinh một gái tên là Trang. Trong khoảng mấy năm trời hương lửa đậm đà, thân mẫu Tản Đà đã hưởng được mọi hạnh phúc trần gian. Nhưng hạnh phúc này quá ngắn ngủi. Năm 1891, Tản Đà lên ba, quan án lâm bệnh rồi từ trần. Vì đường sá xa xôi, gia đình không thể đưa linh cửu quan án về quê, nên phải an táng tại phủ An Khánh, Ninh Bình. Cái chết của người cha, người chồng, thường báo hiệu một khúc quanh bi thảm của một gia đình.
Bà chị Tản Đà kể rằng khi làm tri phủ Xuân Trường (1), Nam Định, thân phụ bà thường say mê thú hát ả đào. Yêu nhịp hát câu ca, ông yêu luôn cô đào hàng Thao Nam Định. Nàng rất trẻ đẹp, tuổi độ 20, tên là Nghiêm (2). Lúc bấy giờ Nguyễn Danh Kế tiên sanh đã ngoại bốn mươi, việc tề gia nội trợ đã có bà cả và bà hai vốn là hai chị em ruột. Ngày xưa cổ nhân có tục đa thê cho nên chẳng bao lâu nàng danh ca đã trở thành vị phu nhân của quan phủ, tục danh là bà phủ Ba. Bà giỏi xướng ca, lại rành thi hoạ. Bà cùng nữ sĩ Nhàn Khanh (3) xướng hoạ. Khi ở Vân Đình, bà Nhàn Khanh đã gửi bà phủ Ba một bài thơ:
Ai lên Bất Bạt nhắn nhe cùng,Bà phủ Ba đáp lại:
Nhắn hỏi cùng ai có nhớ không?
Nửa bước xa xa bằng mấy dặm,
Một ngày đằng đẵng ví ba đông.
Giọng thơ tri kỷ say mê mệt,
Ngọn lửa tương tư đốt cháy nồng.
Khắc khoải năm canh lòng luống những,
Thư tình mở mở lại phong phong.
Đêm qua vơ vẩn chốn thư đường,Qua thơ xướng hoạ kể trên, chúng ta thấy bà phủ Ba cũng là tay tài hoa. Lại nữa, một vị phu nhân dòng dõi trâm anh thế phiệt như bà Nhàn Khanh lại có thơ xướng hoạ cùng một phu nhân xuất thân ca kỹ, cũng có thể do giao tình đậm đà giữa quan án và gia đình họ Trịnh, họ Dương mà cũng là do lòng liên tài quá lớn vậy.
Mong mỏi chung tình chẳng thấy sang.
Sáu khắc mơ màng người hảo hữu,
Năm canh tơ tưởng chốn Đình giang.
Trông trăng bát ngát thương người ngọc,
Thấy nước long lanh nhớ bạn vàng.
Hai chữ tương tư khôn xiết kể,
Khối tình chi để một ai mang.(4)
Đối với việc cụ bà và cô Trang hành động như vậy,Tản Đà tiên sinh lúc còn trẻ tuổi, ở với ông anh cả là Nguyễn Tái Tích (đỗ phó bảng, làm tri huyện, sau về giáo thụ, thăng đốc học) vốn nung đúc ở trong đạo Khổng Mạnh, lấy làm một sự không chính đáng. Cho nên tâm cảnh tiên sinh lúc nào cũng u uất, đau đớn, buồn rầu, không muốn biết đến, không muốn nói ra. Vì tiên sinh là một người đã có cái ý muốn làm “Á châu Khổng phu tử chi đồ” từ lúc bé, nên phàm cái gì trái với đạo đức Khổng Mạnh, tiên sinh đều cho là một sự không trong sạch cả. (7)Phan Kế Bính đã mô tả cuộc sống của các đào nương nơi Bình Khang là một nơi “sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh” như Thuý Kiều ở lầu xanh. Ông viết rằng Bình Khang là một nơi vui chơi suồng sã, các quan viên và đào nương “có khi quàng vai bá cổ nhau mà mời, hoặc hôn nhau để tỏ lòng yêu mến” và “lấy cách quàng vai bá cổ, kề đùi, kề vế làm vui, lấy lời ong bướm lả lơi, giăng hoa bỡn cợt làm thích” (8). Không biết thời Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, người ta đi hát ả đào như thế nào, còn thời Pháp thuộc, hát ả đào không còn là một nghệ thuật nữa. Trong Chiếc lư đồng mắt cua, Nguyễn Tuân đã cho ta những nét phác hoạ rất trung thực:
Những người bạn trong trường tác hí của tôi, cái đức huyên náo không thể chê vào đâu được. Họ đánh trống như đám hoả đầu quân băm thịt viên trên cái quầy bếp một hiệu cao lâu Quảng Đông to lớn. Họ nói chuyện tâm sự với nhau mà như hầu sáng hô tiền hàng. Họ vần cô đào, họ chơi hoa như lính đi cắt cỏ ngựa về cho ngựa ăn. Nhà hát là cái chợ.(9)Những lời phê bình, mô tả chung chung như thế có lẽ đến tai Tản Đà. Nhưng nặng nề hơn, một vài kẻ đã nêu đích danh gia đình Tản Đà, mẹ và em gái Tản Đà ra để làm đề tài. Người ta vô tình hay cố ý làm vỡ vết thương lòng của Tản Đà như trường hợp phó bảng Trần Tán Bình (1869-1935). Một hôm ông phó bảng họ Trần đi hát gặp cô Trang đã làm một bài hát nói:
Có phải cô Trang em ấm Hiếu?Vì xót thương má hồng gặp bước truân chuyên hay mai mỉa gia đình người ta mà ông phó bảng viết bài này? Dẫu sao, ông phó bảng đã làm một việc thiếu tế nhị nếu ông đọc bài này cho cô Trang nghe hay phổ biến bài này trong quần chúng!
Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà.
Vì đâu vương lấy nợ tài hoa?
Bắt luân lạc, trời già âu cũng độc!
Cha án sát, anh thời đốc học,
Nền đỉnh chung bỗng chốc hoá truân chiên.
Cất chén quỳnh nhớ bạn đồng niên,
Dục lòng khách bên đèn sa nước mắt.
Nhớ bạn, thấy em như thấy mặt,
Dừng roi chầu, lặng ngắt một hồi.
Đời người đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.
Hoa xuân em giữ lấy thì!(10)
Trăm năm trong cõi người ta,Tính hạnh người đàn bà có một cái trọng nhất là chữ trinh; đạo người đàn bà đối với chồng có một cái trọng nhất là chữ trinh. Trinh nghĩa là chính chuyên. Chính thời không gian tà, là giữ tính hạnh của mình cho nhất đức. Chuyên thời không có lòng nào với người khác. Là giữ tình nghĩa với chồng cho nhất tâm. Một chữ trinh của đàn bà, từ xưa đến nay, cả đông lẫn tây, đời nào cũng phải quý, nước nào cũng phải quý, nước nào cũng phải chuộng. Chữ Trinh đáng quý và đáng chuộng thời tự người đàn bà càng nên biết quý chuộng là phải. Ngọc lành đã được giá, nên giữ sao cho sạch vết, khỏi phụ lòng người mua. Trăm năm đà kết nghĩa đá vàng, sông chưa cạn, đá chưa mòn, mà nỡ đem một tấm lòng son, yêu riêng sẻ giấu, thời soi gương thẹn với gương,đeo hoa thẹn với hoa, đứng giăng thẹn với giăng, ngồi đèn thẹn với đèn, đêm nằm thẹn với chăn, ngày ngày đi thẹn với bóng, trong đời người ta có một cái quý nhất mà dứt tình cho đang! Chẳng qua cái ngòi vật dục khêu ở ngoài, ngọn lửa vật dục bốc ở trong làm cho một chút lòng trinh đương đỏ như son mà cháy ra than, tàn ra tro, tan ra khói. Tiếc thay! (12)
Trai thời trung hiếu, đàn bà tiết trinh (11)
Nghĩ sao cho được hơn người,Và đây là một trường hợp tương phản làm nổi bật cuộc sống đen tối của thân mẫu và em gái thi sĩ. Trong gia tộc Tản Đà có bà họ Phan về làm dâu, được bốn năm thì chồng chết, bà vẫn thủ tiết theo giáo dục Khổng môn. Tản Đà đã kinh qua hai hình thái đau khổ. Một là gia đình và xã hội đã so sánh mẹ của Tản Đà với tiết phu họ Phan. Hai là chính Tản Đà cũng có sự so sánh. Sự so sánh này là một điều tất yếu như Charles Blondel đã nhận định:
Tiếng thơm để lại muôn đời ngợi khen (13)
Có những trạng thái cảm kích, mặc dầu ta muốn hay không, được đoàn thể truyền khiến hay suy tiến cho ta.(14)Trong khi ca tụng bà tiết phụ này, chính là lúc Tản Đà xót xa vì mẹ và em gái đã sống trong dòng nước đục:
Trời Nam sáng vẻ văn minh,Tản Đà mất mẹ và em gái. Tản Đà thiếu tình mẫu tử. Tản Đà đã đi tìm một tình mẫu tử khác để thay thế tình mẫu tử đã mất. Tục lệ Việt Nam đặt cho người vợ cả nhiệm vụ trông nom, nuôi nấng con chồng. Các con của bà vợ bé phải gọi bà Cả bằng mẹ. Tản Đà đã nương nhờ vào bà Cả mà sống. Việc này đúng như nhận định của George Dumas:
Họ Phan một gái hiển sinh trên đời.
Núi Sài Sơn là nơi quê quán,
Xe hương về họ Nguyễn làm dâu.
Dâu con một đạo chân tu,
Áo nâng khuya sớm, canh hầu hôm mai.
Chữ cầm sắt, sắc tài ưa đẹp,
Vẻ trâm anh một nếp đôi nhà,
Nhân sinh đệ nhất thực là,
Nhân gian một bóng trăng già soi chung.
Bốn năm chẵn tơ hồng sớm dứt,
Kẻ tri âm lánh khuất cõi đời,
Đầu xanh riêng lẻ mình ai,
Tuổi xanh thoắt đã ra ngoài bốn mươi.
Duyên đã ngắn, năm dài vô tận,
Bể phù sinh chiếc bách sóng dồi.
May thuê vá mướn lần hồi,
Ngày trông lá rụng, đêm ngồi gió thu.
Áng son phấn tuyệt mù xa cách,
Đạo kiên trinh qưyết gánh lấy mình,
Trăm năm một gối phong trần,
Ngàn năm để khách thoa quần một gương(15)
Các nhu cầu khi tự xã hội hoá, khi điều chỉnh các thoả mãn của chúng bằng cách tuân theo các phong tục và các định chế nào, tức là bảo vệ và làm dễ dàng chính sự thoả mãn chúng (16).Năm 1922, đương làm chủ bút Hữu Thanh, Tản Đà đã xin từ chức để lui về quê cũ phụng dưỡng mẹ già (bà Cả). Ông đã gửi độc giả bức tâm thư trước khi rời Hữu Thanh:
Tôi có một mẹ già đã ngoại tám mươi tuổi, từ tháng Mai 1921, tôi về làm việc Hữu Thanh, đến rằm tháng 8 An Nam về nhà được một hôm, từ ấy đến nay lại vẫn ở luôn Hà Nội. Nếu tôi muốn đón mẹ tôi về Hà Nội, thời ngại về hai chữ “phong chúc”, nếu cứ như trong tám tháng giời vừa qua đó, thời không yên hai chữ” thần hồn”. Vì cớ đó nay tôi xin thôi việc Hữu Thanh để về tính theo việc buôn bán cho được it thời giờ bó buộc, cho được it lỗi với luân thường.(17)Việc Tản Đà từ chức Hữu Thanh là do mâu thuẫn nội bộ của Hội Công thương Bắc Kỳ, chủ nhân ông của Hữu Thanh tạp chí. Lý do Tản Đà viện dẫn chỉ là đường nét văn hoa, tế nhị để khỏi nói ra thực tế phũ phàng. Dẫu sao, trong tâm Tản Đà, bà mẹ già vẫn có một địa vị khả kính, thay thế cho người mẹ phong trần.
Quan hà xa cách, thấm thoắt đã hai năm. Độ nọ được thu anh Cả gửi sang, biết mẹ già vẫn thường được an khang, và số tiền gửi về năm ngoái, Hiền Khanh đã nhận lãnh, tôi lấy làm yên lòng. Bóng dâu đã xế ngang đầu, nhờ Hiền Khanh thay chữ mai sau cho, thời người ngoài bể khơi cũng như về đến phần hường vậy........ Thôi, càng nhớ chồng bao nhiêu, càng nên chiếu lấy mẹ già bấy nhiêu. Ngày tháng thoi đưa, không mấy chốc mà đôi ta họp mặt. Mấy lời trân trọng, ngàn dặm nước mây. (18)Chị Tản Đà cho biết thuở nhỏ, Tản Đà được mẹ già nuôi nấng, thương yêu và Tản Đà đối với bà rất hiếu thảo, thật xứng với cái cái tên Hiếu của Tản Đà. Sau khi đã lập gia đình, Tản Đà vẫn ở với mẹ già để hôm sớm gần gũi. Những khi mẹ già đau ốm, Tản Đà vẫn thường túc trực bên giường bệnh để trông nom, săn sóc. Khi mẹ già mất, năm 1923, một mình Tản Đà lo việc ma chay. Đến ngày giỗ, các anh chị muốn góp phần giỗ, Tản Đà không nhận. Tản Đà muốn một mình gánh vác mọi việc. Tản Đà đã phủ nhận mẹ ruột của mình, và nương tựa vào mẹ già, tức bà Cả. Theo lời cụ huyện, Tản Đà thường nói với mọi người: “Đời tôi chỉ có một người mẹ, đó là mẹ già”.
Ở nhà cùng hai thân,Giấc mơ của Tản Đà rất đơn sơ, giản dị, là một hiện thực trong xã hội Việt Nam mấy ngàn năm, hàng triệu trẻ con đã được hưởng thụ. Ông mong ước có cha mẹ săn sóc cho con, và con cái cũng biết yêu thương cha mẹ:
Ra vào quanh dưới chân.
Đem lòng một tấc cỏ
Báo đáp cùng ba xuân.
Ba xuân như mẹ cha
Tấc cỏ như thân ta,
Nhờ xuân, cỏ xanh tốt,
Có cỏ xuân vui hoà.(21)
Ta nay như cỏ xuân,
Ngày ngày chơi trước sân.
Nghĩ sao trong tấc dạ,
Cho vui lòng hai thân.
Khi vui nào được mấy,
Lo buồn như dễ thấy,
Cha lo con nên thương,
Mẹ buồn con chớ quấy
Ta nay còn trẻ thơ,
Chưa cho cha mẹ nhờ.
Cha mẹ lúc sai bảo,
Vui vẻ con dạ thưa.(22)
Đạo hiếu rộng như bể,Tản Đà mơ ước có một người mẹ, hằng ngày tựa cửa trông con đi học về. Đối với Tản Đà đó một hạnh phúc mà ông hằng ước mơ:
Thân ta còn nhỏ bé.
Nhớn lên mong về sau,
Trọn hiếu cùng cha mẹ.(23)
Tan buổi học, mẹ ngồi tựa cửa,Trong thực tế, Tản Đà xa lánh mẹ nhưng mặt khác, trong tiềm thức, không nhiều thì ít, ông đã biện hộ cho me ruột của ông và thông cảm cho bà và em gái. Phần lớn các gia đình thường có những vấn đề, nhất là các gia đình đa thê. Giữa bà cả và các bà thứ thường là một trận chiến liên miên bất tận. Trong gia đình Tản Đà, bà Cả và bà Hai là hai chị em cho nên họ đứng vào một phe. Một mình thân mẫu Tản Đà đứng một phe. Họ ghét thân mẫu Tản Đà vi bà đã chiếm đoạt tình yêu của hai bà. Hơn nữa họ còn oán thân mẫu Tản Đà vì lúc say mê cô đào hàng Thao Nam Định, ông đã phá tán nửa già tài (theo lời chị Tản Đà). Có lẽ Tản Đà đã kết tội chế độ đa thê ở nước ta đã ra nỗi đau khổ cho thân mẫu Tản Đà.
Mắt trông con đứa đứ về dần.
Xa xa con đã đến gần,
Các con về đủ quây quần bữa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm giòn,
Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà.(24)
Gia nhân ly tất khởi ư phụ nhân, nghĩa là trong nhà lìa tan, tất do ở đàn bà mà ra... Gần đây, trong xã hội ta, xem ra it có mấy cái gia đình được vui vẻ, cũng là vì bên nội tướng kém ru? Thứ nhất là cái lượng bao dung của người đàn bà có kém, cho nên trong gia đình của người chồng, anh em chị em khó mà được xum vui cùng nhau.(26)Ngoài gia đình ngày xưa, xã hội thời Tản Đà cũng đóng góp vào bất hạnh của gia đình Tản Đà và xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Khoảng cuối thế kỷ 19, quân Pháp đã gây chiến tranh khắp Việt Nam. Khắp nơi, người chết, nhà tan cửa nát. Khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội, chiến tranh đã đến miền Bắc. Một số quan lại đầu hàng Pháp, cam tâm làm tay sai cho Pháp thì được no ấm. Trái lại, những người có sĩ khí, bất cộng tác với thực dân thì bị đói khổ. Hàng triệu trí thức thất nghiệp, hàng triệu viên chức sĩ quan và binh lính trở về thôn quê hay sống lây lất ở thành thị. Hàng vạn cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Trần Tế Xương không phải là một sử gia hay xã hội học, song qua mấy câu thơ cay đắng của ông, chúng ta đã thấy rõ thực cảnh xã hội thời bấy giờ:
- Cái học nhà nho đã hỏng rồi,Trần Tế Xương cũng đã nói rõ bản thân ông và gia đình ông, một trong hàng triệu gia đình bị phá sản, đã xuống tận đáy xã hội:
Mười người đi học chín người thôi!
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy giáo tư lương nhấp nhỏm ngồi...
- Nào có ra gì cái chữ nho,
Ông nghè, ông cống cũng nằm co.
Sao bằng đi học làm thầy phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
Vợ lăm le ở vú, Con tấp tểnh đi bồi!Trong hoàn cảnh đó, một người đàn bà yếu đuối như mẹ Tản Đà làm sao chống chọi nổi sự suy sụp của một thời đại, và của một xã hội? Sau này, đã già dặn trong đời, và trải qua những cơn khủng hoảng kinh tế, Tản Đà mới nhận thức đưọc bao đắng cay của thực tế. Từ duy lý tưởng, ông chuyển qua duy thực. Ông đã công nhận quan điểm của Mạnh Tử về mối tương quan giữa kinh tế và đạo đức:
Hằng sản cũng không, tâm cũng mất (27)Ông không phải nhà xã hội nhưng tư tưởng Lão Phật đã chi phối tư tưởng và tình cảm của ông.Trên đàn ngôn luận, ông bênh vực cho vấn đề cơm áo, coi mọi người đều bình đẳng trong cuộc mưu sinh:
Cái thân con người đã phải có ăn, có mặc mới sống được, thời muốn cho được sống, phải có cách làm ra cơm, kiếm ra áo mà nuôi thân. Cách làm ra cơm, kiếm ra áo của người đời, dù lương thiện hay gian phi, dù cao thượng hay đê tiện, trăm đường nghìn lối, thật là khác nhau, nhưng đều là sinh kế, đều phải có mới được sống. Người ta không thể ăn rễ cây để sống thời cũng không thể lấy đạo đức làm sinh nhai.(28)Tản Đà bây giờ thực sự đạt đến tâm Phật, yêu thương mọi chúng sinh, không phân biệt quý tiện, thiện ác:
Người ông lớn, đứa cu ly,Như vậy, trong tiềm thức, Tản Đà đã bênh vực nghề nghiệp của mẹ và em gái. Luận bàn về các nghề nghiệp, trong Đài gương, Tản Đà viết về phụ nữ:
Nhọc mình, nhọc xác cũng vì cái ăn.
Cuộc đời kinh tế khó khăn,
Người đời còn phải nhọc nhắn sớm hôm.
Những người khố rách áo ôm,
Mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng.
Người thương mại, kẻ canh nông,
Lo tiền, lo thóc năm cùng lại năm.
Ngày ngày hai buổi đi làm,
Cụ thừa trong sở, ông tham trên toà.
Người khiêu vũ, kẻ xướng ca,
Cùng là nghề nghiệp con nhà làm ăn.(29)
Người con gái lúc sắp bước chân đi lấy chồng: ai cũng tính: một sơi tơ hồng, trăm năm chỉ thắm, đầu xanh đẹp lứa, tóc bạc cùng già. Cảnh ngộ như thế là thường thuận,, thiên hạ được như thế là phần nhiều. Nhưng nếu kìa như ai, không may mà duyên giời có hạn, giữa đường uyên bay, quành cọi sân thu, ngây thơ đôi chút...,. Dẫu cho cấy nhiều buôn to, tiền buôn thóc đặt cũng chư ở vững có yên lòng, huống chi nhà rách vách xiêu, chân ngay tay cứng, được bữa sớm không bữa tối. Khó lắm thay!(30)Vấn đề xã hội này được Tản Đà đề cập đến trong các tác phẩm Thề non nước, Trần ai tri kỷ, Kiếp phong trần và phần Bình Khang ca phả trong Tản Đà vận văn. Dưới mắt Tản Đà, các ca kỹ đều đáng thương. Vân Anh, nhân vật trong Thề Non Nước vốn con nhà thi lễ, gặp cảnh sa sút, me đau yếu, đành phải dấn thân vào chốn Bình Khang:
Vân Anh một mình đứng giữa sân, nhìn lên giăng mà xem, thấy những đám mây bay tán loạn, thường che mờ cả mặt giăng. Cái cảm hoài vô hạn, bị cảnh đó khêu động, nghĩ đến thân thế con người ta nhiều khi hỗn lĩnh thật là quang sáng mà phải những cảnh ngộ ác nghiệt làm cho đến âm u, sầu thảm khác gì mặt giăng vốn trong sáng mà có khi phải luồn những đám mây vô lại kia, bỗng nghĩ lại thân thế của người ta có khi thật như đám mây bay tán loạn, bầu trời vô hạn biết đâu chỗ về.(TNN,3)Vân Anh là hình ảnh mẹ và em gái Tản Đà ở Bình Khang:
Hồ Gươm sen mới ra hoa, Cả hương, cả sắc ai mà không chơi. Sen tàn lá rách tả tơi, Quanh hồ lai vãng ai người tiếc thương. Nước hồ sen đứng soi gương, Còn đâu là sắc, là hương với đời. Tủi thân, sen lại giận đời, Cho chi hương sắc, cho người trọng khinh.(TNN 9)Tản Đà đã vin vào thuyết tài mệnh tương đố để giải thích về cuộc đời đắng cay của mẹ ruột và em gái:
Nghĩ là thân một người con gái có nhan sắc, có tài hoa, có học vấn, vì cửa nhà sa sút mà truỵ lạc vào xóm Bình Khang... Con tạo đã ghen ai, ghen cho thật quá nhẽ, đã ghét ai, ghét cho thật đủ đường. Nào ai là những kẻ có tài, nghĩ chữ “tài” còn có nên có nữa hay thôi? (TNN, 19).Lời của một người khách năm xưa gửi cho Vân Anh, khen ngợi Vân Anh:
Là một người tuấn tú trong nữ giới, về sự cũng đã có công phu, nếu không phải cảnh ngộ làm hại người thời như công nghiệp Ban Chiêu, tài danh như Tô Huệ, bắc nam dẫu có khác mà xưa nay định cũng không nhường nhau. Vậy mà con tạo ghen tài, không cho cành mai kia được riêng nở trên núi.(TNN, 44)Vân Anh trong Thề non nước, Đào Liễu, Cúc, Lan trong Truyện thế gian chính là mảnh đời của mẹ và em gái Tản Đà. Tản Đà thương xót họ vì họ mang số phận “hồng nhạn bạc mệnh”
Cái kiếp phong trần ngán biết bao,Tản Đà thương xót họ vì cuộc đời phiêu bạt, và cô độc như cánh bèo nổi trôi trên mặt nước:
Xuân lan thu cúc Đông liễu tây đào
Hoá công độc địa làm sao
Mà đem bạc mệnh buộc vào hồng nhan.(31)
Bồng bềnh mặt nước chân mây,
Đêm đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa.(32)
Bốn phương non nước quê người,Họ là những kẻ cô đơn, nhất là chuổi ngày tàn, bóng xế:
Chân mây mặt bể, bên giời một ai.
Ngọn trào lên xuống hôm mai,
Sớm khuya ai cũng đầy vơi dạ sầu! (33)
Bên thì trời, chị em ơi, lận đận bên thì trời.Lời người kỹ nữ trong Thành Sầu là một bức tranh tả thực cuộc sống và tâm tư đau khổ của các ca kỹ trong đó có mẹ và em gái Tản Đà:
Non cao, nước chảy, ấy ai người tri âm!
Lúc đêm thanh ngồi dậy cô ôm cầm,
Lòng tơ tơ tưởng âm thầm tiếng tơ.
Khúc đàn này vẫn khúc ngày xưa
Mà người đoái khúc bây giờ đâu xa?
Nhớ đầu xanh (còn) đương độ mười ba.
Cười giăng bóng xế, thương hoa thu tàn.
Thế mà cái phận hồng nhan!(34)
Có lúc sầu mà sầu, nhiều lúc vui mà sầu. Trong lúc vui mà sầu thời thực là thái sầu. Mưa phùn chiều hôm, giăng thanh tiếng dế mà sầu, còn được phát tiết ra ngâm vịnh; nhất là những lúc trong bụng đương nghĩ đến nỗi gia hương, tình cốt nhục, sự thân thế, mà lúc cố khách đến chơi giở câu chuyện hoa nguyệt, thời trong một lúc ấy, bụng nghĩ một nơi, tai nghe đi một chiều; miệng có câu muốn nói không được nói, câu không nói mà phải nói cho nên cũng mặt phấn son, nhời hoa nguyệt, mà ruột tầm đã thắt như ngày ươm tơ. (35)Phật và Lão cho đời là hư ảo. Sang hèn, giàu nghèo, vinh nhục cuối cùng chỉ là một cơn mộng, và điểm cuối cùng là cát bụi, là nấm cỏ khâu xanh rì, chính lúc này, con người thật sự bình đẳng:
Khắp nhân thế là nơi khổ ải,
Kiếp phù sinh nghĩ lại cũng như ai. (36)
Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thuý Ái,Tuy vậy, kiếp cầm ca vẫn mang khổ ách chung thân, là đệ nhất khổ, đó là cái khổ của đoá hoa tàn tạ và cô độc. Cũng như Nguyễn Du khóc thập loại chúng sinh, Tản Đà đã than khóc cho số phận đào nương:
Sông Tiền Đường có áy, bến Ô Giang.
Gẫm nghìn xưa, ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang?
Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ.(37)
Nào những ai, Tóc xanh mây cuốn, Má đỏ hoa ghen. Làng chơi duyên đã hết duyên, Khúc sông trắng giãi, con thuyền chơi vơi... thuở trước khách hồng nhan, Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen. Phong trần xui gặp bước luân lạc, Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.(38)Những tình cảm, những tư tưởng của Tản Đà trong các tác phẩm có liên hệ đến đào nương như Thề non nước, Trần ai tri kỷ, Kiếp phong trần và phần Bình Khang ca phả trong Tản Đà vận văn đều có hình ảnh mẹ và em gái Tản Đà. Các nhà tâm lý học đã chú ý đến vai trò của sự liên tưởng, và họ cho rằng tất cả các ý tưởng xuất hiện trong trí óc ta đều có một dây liên lạc. Chính trong sự liên tưởng, vô thức đã đóng một vai trò quan trọng.
Đăng bởi hoalucbinh vào 16/05/2006 10:26
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 16/05/2006 10:28
Dãy Hoàng Liên Sơn phóng một mũi lao từ trên trời xuống, xé rách các vỉa núi như xé vải, ngoằn ngoèo đổ thác qua vùng Tây Bắc, vút thẳng tới trung du thành sông Đà gầm thét. Núi Tản Viên - Sơn Tinh sừng sững làm cây cọc vĩ đại buộc dòng sông hung hãn này lại như buộc một dây diều, rồi đổ dòng mãnh giang vào sông Hồng như đổ một vò rượu nếp. Sông Đà gào rú mà Thuỷ tinh, cuồn cuộn mà phát điện, bập bùng mà thi hứng trời xanh. Nguyễn Khắc Hiếu đã lấy tên con sông và ngọn núi quê hương ghép lại thành bút hiệu thi ca mình: Tản Đà; để hai vị thần Sơn Tinh, Thuỷ Tinh nghìn đời xung khắc cùng ở trọ trong ngôi nhà bản thân mình, như nước phải đồng sàng cùng lửa trong cuộc đời 51 năm của mình mà không dị mộng thì quả là chuyện hi hữu.
Với sự nghiệp quá ư đồ sộ gồm thơ, văn, báo chí, dịch thuật...Tản Đà chính là ngọn núi Ba Vì của nền văn học Việt Nam sững sững suốt 30 năm từ 1915 đến 1935. Sau Nguyễn Khuyến, Tú Xương, nếu không có Tản Đà, nền thi ca Việt Nam sẽ có một khoảng trống lớn không gì bù đắp được. Nếu không có Tản Đà, dễ gì thơ mới 1932-1945 đạt được thành quả to lớn như nó từng có. Tản Đà, cột mốc lớn, gạch nối lớn, nhà ga lớn, trạm trung chuyển lớn giữa nền thơ xưa dân tộc và thơ mới. Ông cổ điển một cách lãng mạn, hiện đại một cách xa xưa, đốt lên ngọn khói nghìn năm thi sĩ ông cha bằng rơm rạ bây giờ. Nếu Nguyễn Khuyến giấu thi hứng trong niềm ở ẩn nơi vườn thu, ao thu, Tú Xương cười ra nước mắt nỗi làng quê hoá phố thì Tản Đà đưa thi ca Việt Nam vào hẳn thành phố cùng thương trường, thị trường: “Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu / Quanh năm những luống lo văn ế”, “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”. Ông là nhà thơ lớn đầu tiên thành công làm thơ bằng chữ quốc ngữ, rồi in thơ ra “đem bán phố phường”, dùng nghề viết để kiếm sống. Suốt cuộc đời bèo giạt mây trôi với thân phận chữ nghĩa, nay đây mai đó như chim, nhưng là chim tu hú không có tổ, Tản Đà từng chua chát, đùa vui mà giới thiệu mình: “Trời sinh ra bác Tản Đà / Quê hương thời có, cửa nhà thời không”. Sinh thời, nhà thi sĩ của giời đất này hầu như chỉ toàn ở nhà thuê, lấy nhà thiên hạ làm nhà mình, sống trên đời mà như sống trên mây. Hơn sáu mươi năm đã qua kể từ ngày nhắm mắt, Tản Đà vẫn nằm ngoài trời, trong nghĩa địa Quảng Thiện, lấy hư vô làm nhà, lấy nắng mưa làm cửa, lấy gió bão làm giường chiếu. Nhưng Tản Đà đã có hàng triệu mái nhà khác để linh hồn ông cư trú là trái tim những người Việt Nam yêu thơ ông. Hình như Tản Đà chọn cho mình ngày sinh và ngày chết trùng nhau: ngày 20 tháng tư âm lịch. Sinh ra và mất đi cùng một ngày ở khoảng giao thời giữa mùa xuân và mùa hè, cũng như vai trò của thơ văn ông là giai đoạn quá độ, giai đoạn chuyển tiếp của thi ca Việt Nam từ cũ sang mới, từ xưa đến nay.
Tản Đà từng viết:” Có văn có ích, có văn chơi”. Nhiều người lầm tưởng văn thơ Tản Đà chỉ là thứ “văn chơi”, còn thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải, Phan Bội Châu và nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục mới là “văn có ích”, mới là văn yêu nước chống giặc ngoại xâm. Không, văn thơ Tản Đà vừa là “văn chơi” vừa là “văn có ích”. Tản Đà yêu nước lắm, căm ghét bọn giặc và tay sai của chúng lắm. Có người cho thơ Tản Đà chỉ toàn thú ăn chơi, toàn có rượu, có say, có ngông, có sầu, cái sầu trích tiên bị đầy hạ giới. Vâng, có tất cả những điều ấy, nhưng còn có thêm một điều hệ trọng khác rằng Tản Đà cũng là một nhà thơ yêu nước như ai. Đất Nước của mọi người, nên mỗi người đều có cách yêu nước riêng của mình. Hãy đọc bài thơ tuyệt tác Thề non nước xem hồn vía Tản Đà ở đâu: “Nước non nặng một lời thề / Nước đi đi mãi không về cùng non...”. Nước ở đây vừa là nước của sông suối, vừa là đất nước. Nước đã mất “Nước đi đi mãi không về cùng non” nên mới để non lại một mình trông ngóng. Cả bài thơ là tấm lòng thương nước, nhớ nước, mong lấy lại đất nước để cho trọn niềm Nước Non. Tình cảm non nước bàng bạc suốt trong thơ Tản Đà, như một vết thương, một niềm quan hoài khôn xiết, một ngóng vọng tưởng tuyệt vọng mà vẫn mong chờ. Ai cũng biết việc Tản Đà treo một bức địa đồ Việt Nam rách rưới trên chỗ làm việc, đi đâu vô Nam ra Bắc ông cũng mang theo: “Non sông thề với hai vai / Quyết đem bút sắt mà mài lòng son / Dư đồ rách, nước non tô lại / Đồng bào xa trai gái kêu lên / Doanh hoàn là cuộc đua chen / Rồng Tiên phải giống ngu hèn, mà cam” (Xuân sầu). Những vần thơ in công khai, toát mồ hôi mới thoát khỏi lưỡi kéo kiểm duyệt của thực dân Pháp, lại mang tính chiến đấu nhường ấy, ai bảo thơ Tản Đà không yêu nước? Nhà thơ vạch lá cờ quẻ li Nam triều ra mà gói nỗi tủi nhục của vua hề: “Cờ vàng dấu đỏ đế vương suông”. Ông dùng thơ văn công khai, báo chí công khai mà vạch mặt bọn tay sai bán nước theo voi Tây ăn bã mía: “Rón chân những chực khi voi nhả / Rát lưỡi đành xơi cái ngọt thừa / Ấy đã theo đuôi thời phải hít / Còn đâu nên tấm nữa mà vơ” (Theo voi ăn bã mía). Tản Đà cố gắng thức tỉnh bọn người trót dại làm tay sai cho ngoại bang trong bài Chim hoạ mi trong lồng như sau: “Lồng son cửa đỏ thảnh thơi / Mi bay mi nhảy sướng đời nhà mi / Nghĩ cho mi cũng gặp thì / Rừng xanh mi có nhớ gì nữa không?” Là một nhà nhân đạo chủ nghĩa, tuy ghét bọn hoạ mi hót trong lồng ngoại bang kiếm ăn này, song Tản Đà vẫn để ngỏ hi vọng vào nỗi nhớ “rừng xanh” trong chúng, nhắc chúng nhớ rằng mình là dân mất nước mà nuôi khát vọng tự do. Chúng ta còn có thể trích ra rất nhiều vần thơ yêu nước của Tản Đà trong việc đả kích chế độ thực dân phong kiến, trong việc nêu gương những anh hùng xưa còn sáng giữa trời tấm gương hi sinh cứu nước...
Nhưng cái đáng quý nhất, tinh thần yêu nước nhất, đóng góp riêng nhất của Tản Đà cho đất nước là công mở đầu nền thơ hiện đại Việt Nam. Ấy là việc suốt 30 năm, ông đã viết được rất nhiều bài thơ, câu thơ hay. Mà phàm thơ đã hay thì dứt khoát mới. Còn có khi thơ rất mới, rất hiện đại mà chưa chắc đã hay. Năm 1920, năm Tố Hữu, Chế Lan Viên ra đời, năm Huy Cận mới tuổi thôi nôi thì Tản Đà đã viết những vần thơ rất mới và rất hay trong bài Cảm thu, tiễn thu: “Từ thu đến nay / Gió thu hiu hắt / Sương thu lạnh / Trăng thu bạch / Khói thu xây thành / Lá thu rơi rụng đầu ghềnh / Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly / Nhạn về én lại bay đi / Đêm thu vượn hót ngày thì ve ngâm / Lá sen tàn tạ trong đầm / Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa / Sắc đâu nhuộm ố quan hà / Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương...” Những dòng thơ này thật tuyệt vời, với hình thức diễn đạt trước Tản Đà chưa hề có trên thi đàn Việt Nam và sau ông, ngay cả những câu lục bát tài hoa nhất của Huy Cận cũng không thể vượt qua những câu lục bát trên của bậc tiền bối. Hồn thu trong thơ Tản Đà vừa mang mang hơi hướng Nguyễn Trãi, Nguyễn Du xưa, vừa có phong vị của các nhà thơ mới sau này. “Sắc đâu nhuộm ố quan hà”, câu thơ tuyệt hay này đọc lên còn nghe buồn xưa xa lắm hiện về từ Đường thi, Tống thi... hay đấy là nghìn năm thi ca phương Đông mượn Tản Đà mà vẽ ra hồn thu muôn thuở? Nhưng đến hai câu thơ viết về lá sen khóc hoa, khóc mùa hè đã mất thì lại rất “thơ mới”, rất hiện đại, rất lãng mạn và rất cá thể, cá nhân: “Lá sen tàn tạ trong đầm / Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa”. Cám ơn Tản Đà đã mang đến cho sự “tàn tạ” nơi lá sen của mùa thu xưa một vẻ đẹp mới, một giọt nước mắt mới, một tâm trạng mới của thời đại “gió Á, mưa Âu”. Năm 1917, sau khi Tú Xương chết 10 năm, Nguyễn Khuyến chết 8 năm, thơ Việt Nam hầu như chỉ còn biết chui vào cái rọ sáo mòn thất ngôn bát cú luật Đường, thì đột nhiên Tản Đà xuất hiện bằng tuyệt tác Tống biệt trích trong vở tuồng Thiên Thai, báo hiệu một cuộc cách mạng thơ: “Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai / Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi / Nửa năm tiên cảnh / Một phút trần ai / Ước cũ duyên thừa có thế thôi / Đá mòn rêu nhạt / Nước chảy huê trôi / Cái hạc bay lên vút tận trời / Trời đất từ đây xa cách mãi / Cửa động / Đầu non / Đường lối cũ / Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...” Mượn nỗi niềm Lưu Nguyễn Thiên Thai xưa, Tản Đà ngậm ngùi tiễn đưa thi pháp cổ điển, thi pháp của “hạc vàng” khuê các về trời, để tiếp nhận thi pháp trần gian, thi pháp của cái tôi lãng mạn, cái tôi trữ tình, tách mình ra khỏi trời đất mà cảm thán nỗi riêng tư hun hút hồn mình.
Cũng như cổ nhân, Tản Đà buồn lắm, day dứt lắm: “Một vừng trăng khuất đi mà đứng / Một lá mành treo cuốn lại buông / Ngồi hết đêm suông, suông chẳng hết / Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông” (Đêm suông Phủ Vĩnh). Buồn đến suông hơn cả đêm suông, mới thấy ngày dài hơn thế kỷ. Tản Đà viết về nỗi buồn làm thời gian lỳ ra, dài ra vô tận, hay tới mức hiếm có: “Người đời thử ngắm mà hay / Trăm năm thì ngắn một ngày dài ghê”. Có lúc buồn quá, nhà thơ đành hoá thân vào con quay (con vụ) mà ngơ ngẩn tỉnh say phận mình: “Lăng nhăng thân thế đi đi đứng / Nghiêng ngả quan hà tỉnh tỉnh say”. Ông mượn chuyện Thuý Kiều mà giấu tâm trạng u uẩn, buồn đau mình vào câu chữ, đọc lên sao hay thế, buồn thế, đau thương thế, khiến lòng kẻ hậu sinh này cũng vương luỵ cổ nhân: “Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh luỵ / Một mối tơ tằm mấy đoạn vương”. Nỗi buồn mất nước, nỗi buồn thời thế như keo vít mắt Tản Đà, khiến ông nhìn vào đâu cũng thấy tối, như thể thế giới cấu tạo nên mọi thứ trừ đôi mắt: “Ù, ù gió thổi Bắc, Tây, Đông / Đêm tối trông ra tối lạ lùng / Tạo vật không tay mà hoá có / Phàm trần có mắt cũng như không” (Đêm tối). Tản Đà ví mình như con cuốc, tiếc xuân, núp trong bụi rậm cuộc đời còn í ới, sao chưa dám nhảy ra giữa thanh thiên bạch nhật mà kêu nỗi đau mất nước hồn Thục Đế: “Sao cứ co ro trong bụi rậm / Lại còn eo óc với trời cao”. Có khi nhà thơ ẩn hồn mình trong con ếch núp bờ ao mà “ì ộp” nỗi đợi mưa tội nghiệp: “Ì ộp hồ xa ếch đợi mưa”. Nhà thơ diễu mình, nhưng là để nói lên nỗi nhục vong thân, vong quốc một cách đớn đau: “Văn có pha trò cho đủ lối / Mực đem bôi nhọ khéo mua cười”. Một người bên ngoài tưởng bông lơn, cười cợt, tưởng ngông lắm, ngang lắm, lại là người mau nước mắt nhất khi ngó tới, nghĩ tới giang san: “Lệ ai giàn giụa với giang san” (Cảm đề).
Tản Đà buồn quá mà nói ngông ra vậy thôi, chứ thực tình, ông là người yếu đuối, rất mềm mỏng mà phải giả bộ cương, quặn thắt nhớ nước thương nòi mà giả bộ phỉ phui, vô tình, vô cảm: “Tài cao, phận thấp, chí khí uất / Giang hồ mê chơi quên quê hương”. Không, Tản Đà uất quá nói khống ra chơi thôi, chứ ông có phút nào nguôi chuyện quê hương đâu. Bởi vì trong tận cùng lận đận, nhà thơ vẫn thẹn cùng sông núi đó thôi: “Bước lận đận thẹn cùng sông núi / Mớ văn chương tháng lụi năm tàn” (Đêm đông hoài cảm). Tản Đà hay viết ngông, nói ngông cho đỡ buồn, giang hồ vặt cho đỡ tẻ: “Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc / Hết cả giang hồ, hết cả ngông”. Tản Đà buồn quá uống rượu tìm say chơi, chứ ông đâu có lấy rượu làm mục đích. Viết về rượu, nhà thơ có nhiều câu hay, chỉ xin chép ra mấy dòng lục bát: “Say sưa nghĩ cũng hư đời / Hư thì hư vậy, say thời cứ say / Đất say đất cũng lăn quay / Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười”. Người mang trái tim rún rẩy như Tản Đà chẳng cần uống rượu vẫn cứ say tít thò lò như quả đất suốt đêm ngày, tự mình lật đà lật đật quay quay...
Trong bài Còn chơi Tản Đà viết: “Vắng tớ bấy lâu đời nhớ tớ / Nhớ đời nên tớ vội ra chơi”. Thưa với Tản Đà tiên sinh, từ khi tiên sinh xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, lúc thi đàn quá ư trống vắng, quá ư heo hút, lập tức tiên sinh đã thành cây đại thụ thi ca mà toả bóng xuống trang thơ các nhà thơ mới sau này, đời chưa phút nào vắng bóng tiên sinh cả. Hơn sáu mươi năm từ thuở nằm xuống, nay Tản Đà vẫn “Nhớ đời” và ra chơi cùng kẻ yêu thơ ông. Thơ với Tản Đà là cuộc chơi lớn, là thú vui còn lại cả sau khi chết, nên sinh thời ông đã quyết chơi cho mãi mãi: “Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi”... “Nghĩ đi nghĩ lại, lại ra chơi”. Trong cuộc chơi thi ca của Tản Đà, tâm hồn Việt Nam, văn học Việt Nam bỗng thêm sinh động và quyến rũ lên rất nhiều; như thể cuộc rong chơi của sông Đà khi qua Hoà Bình hiện nay, trước khi cuốn vào núi Tản cùng thơ Tản Đà, đã say nồng cuồn cuộn làm tuốc-bin cảm xúc Thuỷ Tinh quay tít, sinh ra bừng sáng muôn năm thuỷ điện. Phải chăng sự nghiệp thi ca đồ sộ của thi hào Tản Đà để lại cho dân tộc cũng là một nhà máy thuỷ điện lớn, sinh ra từ sông Đà tinh thần, đặng phát ra ánh sáng tâm hồn, ánh sáng của rung - động-Đẹp cho không chỉ của ngôn ngữ Việt Nam, mà còn cho mỗi tấm lòng yêu thơ vậy.
Đăng bởi hoalucbinh vào 16/05/2006 11:08
Lời dẫn của người sưu tầm:
Uống rượu với Tản Ðà có lẽ là cuốn sách về Tản Ðà ra mắt sớm nhất, ngay khi nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu còn tại thế. Không ít cuốn sách và bài viết ngay sau đó có nhắc đến cuốn sách này của Trương Tửu, nhưng trong khoảng năm chục năm trở lại đây, hầu như không thấy ai còn nhắc tới hoặc trích dẫn cuốn này (ví dụ lần in gần đây cuốn sách của Văn Tâm: Tản Ðà khối mâu thuẫn lớn, NXB Văn nghệ TP. HCM, 2003). Có thể xem cuốn này của Trương Tửu cũng như cuốn Thi sĩ Tản Ðà (1939) của Lê Thanh như những tài liệu đã bị mất.
Rất mừng là trong số những tư liệu mà Thư viện quốc gia Pháp tặng bản chụp (microfilm) cho thư viện quốc gia Việt Nam gần đây có cuốn sách mỏng này của Trương Tửu.
Cuốn sách ra đời ngay hồi đầu năm 1939; đây là loại sách mỏng, nằm trong một tủ sách xuất bản 12 cuốn/năm của Ðại Ðồng thư xã, - cơ quan mà tác giả chính của các ấn phẩm đồng thời là giám đốc: Trương Tửu. Trên bìa cuốn này, có thể đọc thấy những quảng cáo cho các cuốn sách mỏng khác của ông: Vấn đề thơ mới, Những thí nghiệm của ngòi bút tôi, v.v.
Sự đánh giá và lý giải về tác gia Tản Ðà trong cuốn sách mỏng này của Trương Tửu cố nhiên vị tất đã nên xem là thoả đáng. Ðiều tôi, người sưu tầm, muốn đưa lại cho bạn đọc và giới nghiên cứu không phải là một cách nhìn “chuẩn mực” hay “mẫu mực” nào mà chỉ là văn bản một công trình phê bình tác gia Tản Ðà của Trương Tửu, một văn bản đã bị mất lâu nay và chỉ vừa mới tìm lại được. Ít nhất, bạn có thể đồng ý với tôi: đây là một văn bản hiếm và quý.
Lại Nguyên Ân
Tặng cô hàng tạp hoá vô danh ở phố Hàng Bồ, Hà Nội
I. Bữa rượu tam đỉnh
Thi sĩ rót rượu mời chúng tôi:
- Thứ rượu này có ngâm đan sâm và đương quy, uống đậm giọng mà lại không hại sức khoẻ. Hai ông cứ uống thật say, không rức đầu chóng mặt gì đâu mà ngại.
Chúng tôi chưa kịp đáp lời, cụ đã lại nói tiếp:
- Ðể hôm nay, tôi sào nấu lấy các thức ăn, hai ông xem. Tôi làm bếp có phần lại giỏi hơn làm văn… (cười và quay lại gọi gia nhân) Này, anh nhỏ! Anh đặt cái hoả lò nhỏ lên bàn này tôi… Ðược rồi! Anh đặt luôn cái soong chả dê này lên trên cái hoả lò nhỡ kia, cho thêm tí mỡ vào… Ðược rồi! Bây giờ anh nhóm lửa cái hoả lò to kia lên để nấu canh, húp cho rã rượu… (cười và quay về chúng tôi) Kìa! Hai ông sơi rượu tự nhiên đi… Ðấy, ăn trên lửa có phải ngon không? (cười to) Một bữa rượu, ba cái hoả lò! Sang thật! Ngày xưa vua chúa dùng ngũ đỉnh, hôm nay ta dùng tam đỉnh, chứ thua gì!
Thi sĩ chấm hết câu pha trò ngông ấy bằng một chuỗi cười lớn, nở nang, ròn tan. Tiếng cười đủ tố giác một tâm hồn cao quý, thẳng thắn và chân thành. Bao nhiêu tình yêu đời tha thiết, cụ đem phổ hoang phí cả vào tiếng cười ấm áp…
Ðáp lại thịnh tình của chủ nhân, bạn tôi, ông Nguyễn Ðình Lạp, nghiêng mình thưa:
- Chúng tôi được hầu rượu cụ hôm nay thật lấy làm hân hạnh và vui vẻ lắm.
Tôi tiếp lời bạn, thân mật hơn:
- Chúng tôi không ngờ rằng nhà thơ tài hoa của núi Tản sông Ðà lại nấu nướng thức ăn có nghệ thuật đến thế.
Một nụ cười đắc ý nở kín đáo trên môi thi sĩ:
- Ấy tôi cũng đang tính cho xuất bản một quyển sách dạy nấu ăn lấy tên là Tản Ðà thực phẩm. Trong sách dạy cách chế biến các món ăn thế nào cho người rất ít tiền cũng có thể ăn ngon được. Còn những người giàu sang thì mặc họ! Mình cần chú trọng vào người nghèo hơn…
Tôi tán thành:
- Vâng, cụ nghĩ thế rất phải. Cụ nên cho xuất bản sách ấy chóng ngày nào hay ngày ấy. Chính chúng tôi đây cũng chờ quyển sách đó để nhờ nó mà có thể sành thêm một chút trong sự nếm. Và không khéo chúng tôi sẽ thành những tay đầu bếp giỏi cả cũng nên.
Cụ cười vang. Chúng tôi cũng cười. Tiếng cười làm nóng cả không khí ảm đạm của gian nhà vắng vẻ. [1] Cụ lại rót một tuần rượu nữa mời chúng tôi. Chén tạc chén thù, cụ thuật cho chúng tôi nghe những quãng đời phong trần đã nếm trải. Giọng nói của thi sĩ khi trầm hùng, khi lâm ly làm sống hẳn lại cả một thời dĩ vãng. Nhờ những câu chuyện tâm sự ấy, chúng tôi hiểu thêm thi sĩ và cũng yêu thêm một người có công lớn với văn chương Việt Nam hiện tại.
Câu chuyện tâm tình, dần dần chuyển sang địa hạt triết lý. Sau khi thuật lại một vài mẩu đời luân lạc, thi sĩ nói như để kết luận:
- Ở đời, tôi tưởng nên biết thưởng thức mỗi thứ một chút và cốt nhất là phải thưởng thức cho sành, nhất là cái ăn cái uống. Hai ông tính, người ta sống được bao năm? Chẳng tiêu pha cuộc đời cho mãn ý, lúc chết hai tay buông xuôi, hối tiếc cũng bằng thừa. Tuổi xuân của con người mấy lúc mà tàn? Tôi cứ xem như tôi đây vừa dạo nào còn là một thư sinh mà bây giờ đầu đã bạc cả rồi!
Lời nói chứa đầy một tiếc nhớ mênh mang. Trong cặp mắt mơ mộng của thi sĩ lởn vởn hình bóng xa mù của những năm tháng không bao giờ trở lại nữa… Tự nhiên, tôi thấy bị xâm chiếm bởi những viễn ảnh buồn tênh của tiêu vong. Tiệc rượu lạnh hẳn đi!
Bỗng từ dưới đường cái vẳng lên một âm nhạc vô cùng ai oán. Chúng tôi giật mình, mở cửa kính, nghé mình nom xuống.
Một đám ma!
Tiếng kèn trống, tiếng hồ, nhị, tiếng khóc than làm náo động cả hai bên phố xá. Tiết trời cuối đông cũng hình như ngậm một sầu hoài tang tóc…
Ðám ma đi khỏi, ba chúng tôi lại quay vào bàn rượu, mỗi người băn khoăn theo một xúc cảm riêng.
Thi sĩ thở dài nhẹ nhàng:
- Chết thế là hết! Chúng mình rồi cũng chỉ đến thế thôi!
Rồi cụ vội hâm nóng gian phòng bằng tiếng cười thân thiết:
- Sống ngày nào, ta hẵng nếm hương vị của đời ngày ấy đã. Chăng ăn chẳng uống, lúc chết như người xấu số kia có đem theo được gì đâu? Kìa, mời hai ông sơi rượu đi! Giá ta được một tảng thịt lợn quay vừa mới khiêng qua mà đánh chén thì thú nhỉ! Hai ông! Ta cạn chén!
Trong câu bông lơn vô tình, thi sĩ để lộ một bản tính ưa hỷ lạc đến cực điểm. Tôi tưởng thi sĩ sắp hô lớn như anh chàng Pantagruel của Rabelais: “Hỷ lạc muôn năm! Rượu muôn năm!”
Nhưng không.
Thi sĩ là người của phương Ðông trầm nghị.
Cụ yêu hỷ lạc, yêu sống, yêu rượu có lẽ tha thiết hơn anh chàng Pantagruel. Nhưng cụ yêu có nghệ thuật. Yêu đằm thắm mà không rầm rĩ, nồng nàn mà không thô kệch. Yêu với tất cả khiếu kiểm soát minh mẫn của thiên lương.
Thi sĩ Tản Ðà yêu đời, yêu hỷ lạc, yêu rượu theo kiểu một tín đồ sáng suốt của Epicure. Cụ là người bằng giác quan nhưng cũng là người bằng khối óc. Hai cái đó bổ túc nhau, sát hạch nhau, điều khiển nhau, gây thành một thăng bằng về sinh lực, riêng biệt của người épicurien. Các bạn đọc sẽ thấy, ở những trang tiếp theo đây, thơ Tản Ðà chỉ là tiếng nói thông thái và trác luyện của con người épicurien ấy.
*
Thi sĩ Tản Ðà sinh tại Nam Ðịnh, phố Hàng Thao, ngày hai mươi bảy tháng Tư năm Thành Thái nguyên niên (1889), tính đến nay cụ vừa chẵn 50 tuổi. Người cụ đã yếu, đầu đã bạc và hói.
Cụ vốn dòng dõi quyền quý, hấp thụ nền Nho giáo từ bé. Như lời cụ thuật lại, tổ tiên xưa kia vẫn làm quan dưới triều Lê. Cập đến lúc nhà Nguyễn thế chân triều Lê, các ngài thề với nhau quyết không bao giờ chịu ra làm quan nữa. Ðến đời thân sinh của thi sĩ, lời thề ấy bị phụ. Vì gia đình bần bách, thân sinh cụ, - Nguyễn Danh Kế tiên sinh, - phải đi đánh quay đất để nuôi mẹ già. Nghĩ khổ cực quá, tiên sinh đành lỗi ước với tổ tiên, ra thi và chịu ấn phong của Nguyễn triều. Tiên sinh làm đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý. Tục truyền văn án tiên sinh hay lắm. Những lý lẽ tiên sinh dùng để gỡ tội cho bị cáo nhân bao giờ cũng đanh thép, nhiều lần vua Tự Ðức đã phải khen. Muốn chứng thực tài văn án của tiên sinh, tôi tưởng không gì bằng thuật lại ở đây một vụ truy tố ly kỳ xảy ra dưới triều Tự Ðức, mà trong đó tiên sinh đóng vai Ngự sử.
Nguyên hồi ấy, trong cung vua Tự Ðức có nuôi một con hạc rất đẹp. Vua yêu nó lắm, đã phong tước Vương cho nó. Ở cổ hạc lủng lẳng một cái bài ngà. Một buổi chiều kia, hạc ta ngất nghểu ngao du ra ngoài cửa thành và bị cắn chết bởi một con chó của người chủ quán bán hàng cơm gần đấy. Tức thời, chủ quán bị bắt giam và truy tố. Tiên sinh, ở địa vị Ngự sử, làm trạng sư cãi cho bị cáo nhân. Bản cãi rất hùng hồn và nhiễm một tính cách trào phúng rất sâu sắc. Trong đó có bốn câu dưới đây lý thú nhất:
Hạc hữu kim bàiVua Tự Ðức mến phục tài tiên sinh liền truyền tha bổng người chủ quán. [2]
Khuyển bất thức tự
Súc vật tương thương
Hà phương nhân sự
(Con hạc có đeo kim bài thật,
Nhưng con chó không biết chữ.
Ðó là việc loài vật hại lẫn nhau.
Việc chi đến người bị tội?)
Bồn chồn chín khúc cơn mưa lạnhToàn những lời thất vọng, trách móc, thở than! Trong thơ ta gặp cả một linh hồn tê tái. Ta muốn ơn cô hàng tạp hoá phố Hàng Bồ, nàng Elvire của thi sĩ Tản Ðà. Nhờ cô, ta được ngâm bao nhiêu vần thơ trác tuyệt chan chứa một hận tình thắc mắc. Trong suốt dọc đời thi sĩ, tế Chiêu Quân ở chùa Non Tiên hay khóc Thuý Kiều bạc mệnh, thương nhớ người tình nhân không quen biết hay mơ tưởng đến cố hữu Chu Kiều Oanh, - những đề hứng buồn và đẹp ấy đều bắt nguồn trong giấc mộng phù hoa thứ nhất của cậu học trò mười chín tuổi. Thi sĩ có đa tình là chỉ đa tình với kỷ niệm ái ân đầu tiên ấy. Bao nhiêu năm chìm nổi cũng không xoá nhoà được hình ảnh thân yêu của người hồng phấn nữ phố Hàng Bồ.
Ðòi đoạn năm canh bóng nguyệt mờ…
Kìa con én trắng đâu đâu lại
Giục cái thoi vàng chóng chóng qua
Buồn quấn mành trông trông chẳng thấy…
Bèo nước hợp tan người mỗi nẻo
Cậy ai mà nhắn một đôi câu…
Một vừng trăng khuất đi mà đứng
Một lá mành treo quấn lại buông
Ngồi hết đêm suông suông chẳng hết
Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông….
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Vì ai cho tớ cứ lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình! [7]
Elle louche, et l’effet de ce regard étrangeKết cục, chàng thanh niên thi sĩ hư hỏng ấy bị nàng truyền cho bệnh hoa liễu. Trong một cuốn sách nói về thân thế và sự nghiệp Baudelaire, nhà phê bình John Charpentier thuật đến đoạn này, có viết: “Tính cách ghê tởm của tấn thảm kịch đó ảnh hưởng quyết định đến số kiếp thi nhân. Từ đó, Baudelaire cứ tưởng vâng theo những bản tính thân thích khi đắm mình trong cuộc truy hoan… Ðeo nặng trên lương tâm cái tội gốc, chàng cứ lăn lóc suốt đời trong truỵ lạc…”, [8] và “Baudelaire đã viết: Văn minh không phải ở điện khí, cũng không phải ở hơi nước… mà chính ở chỗ làm giảm bớt dấu tích của tội gốc trong lòng người. Coi đó Baudelaire tin ở tội lỗi.” [9]
Qu’ ombragent des cils noirs plus longs que ceux d’ un ange
Est tel que tous les yeux pour qui l’ on s’ est damné
Ne valent pour moi son oeil juif et cerné.
Elle n’ a que vingt ans; la gorge deja basse
Pend de chaque côté comme une calebasse
Et pourtant me tratnant chaque nuit sur son corps
Ainsi qu’un nouveau né, je la telle et la mords.
Et bien qu’elle n’ait pas souvent même une obole
Pour se frotter la chair et pour s’ oindre l’épaule
Je la leche en silence, avec plus de ferveur
Que Madeleine en feu les deux pieds du Sauveur.
(Mắt nàng lác, và mãnh lực của cái nhìn kỳ quái ấy,
Cái nhìn bị ẩn dưới bóng những lông mi đen dài hơn mi của thiên thần,
Hiệu nghiệm đến nỗi khiến tôi thấy rằng tất cả những cặp mắt đẹp đã làm đắm người đời
Ðều không giá trị bằng con mắt Do Thái thâm quầng của nàng.
Nàng mới có hai mươi tuổi, mà đôi vú đã trễ xuống
Treo lủng lẳng ở hai bên ngực như hai quả bầu
Thế mà đêm nào tôi cũng rẫy rụa trên thân hình nàng
Như một đứa trẻ mới đẻ, tôi bú và cắn nàng.
Và tuy rằng thường thường nàng chẳng có đến một đồng xu
Ðể tắm gội xác thịt và tẩm dầu đôi vai
Tôi cũng cứ âm thầm liếm thân thể nàng, say mê hơn cả
Nữ thánh Madeleine nhiệt tình quỳ liếm đôi bàn chân của đấng Cứu Thế.)
Giời Nam thằng kiết là tôiTrong bài tế, thi sĩ để lộ một tâm hồn đa cảm vô cùng tế nhị. Thương người bạc mệnh vùi xương ngàn năm ở đất Hồ, thi sĩ cất tiếng ai điếu số kiếp buồn tênh của con người hồng phấn:
Chùa tiên đất khách khóc người bên Ngô
Tôi với cô, tôi với cô
Trước sân lễ bạc có mồ nào đây
Ô hô Chiêu QuânMấy câu này đủ nói dài về tính chất lãng mạn của thi sĩ Tản Ðà, một tâm hồn dễ xúc động, dễ bị đốt nóng bởi những trạng huống tâm lý của đời tài hoa xấu số. Tản Ðà khóc Chiêu Quân cũng như Nguyễn Du khóc Thuý Kiều, Chu Mạnh Trinh khóc Nguyễn Du. Cùng giống đa tình, các bậc thi nhân ấy đã giảng dạy cho người đời một yêu thương mênh mông và tha thiết, một yêu thương vô tận, không bờ bến, không địa giới.
Phương cốt hữu tận
U khảm vô kỳ
Minh nguyệt độc cử
Âm vân không thuỳ
(Ô hô nàng Chiêu Quân
Nắm xương thơm của nàng có thể mất
Mà mối hận u uất của nàng không có thời hạn nào
Chỉ có trăng sáng soi thấu
Thì lại bị mây đen che khuất) [10]
Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!...
Xuân kia sáu bảy mươi lầnTình yêu đời thật là tha thiết, thật là đắm đuối! Nó được thi sĩ hàm dưỡng trong tâm hồn rất phong phú, ca tụng trong thơ ca rất đằm thắm, ứng dụng vào thuật sống rất ham mê. Nhưng ở Tản Ðà, nó khuynh về vật chất nhiều hơn về tinh thần. Ăn ngon, uống rượu ngon, nghe nhiều, trông nhiều, đi nhiều, nói nhiều, cười nhiều…, hưởng thú hương phấn nhiều, tất cả Tản Ðà ở chữ nhiều ấy, hoặc nói đúng hơn, ở chỗ nỗ lực đi đến cái nhiều ấy. Nhưng đây là cái “nhiều” có tổ chức, có mỹ thuật, phức tạp mà chẳng bộn bề, chồng chất mà không hỗn độn.
Của giời tham được độ ngần ấy thôi
Chơi hoang mất nửa đi rồi
Ngẩn ngơ ngồi nghĩ thân đời mà lo
Trông gương luống đã thẹn thò
Một mai tóc bạc vai gù mới dơ
Thương thay! Xuân chẳng đợi chờ
Tiếc thay xưa những hững hờ với xuân
Trăm nghìn gửi lạy đông quân
Hãy khoan khoan tới hãy dần dần lui
Lượng xuân xin chớ hẹp hòi [13]
Thế sự nhất phù vân chi cảnhta sẽ có chân dung trăm phần trăm của người épicurien.
Những ai mê ai tỉnh đã ai ai?
Khéo vô đoan khóc hão lại thương hoài
Thú trần giới có ăn chơi là bực nhất…
Ðời đáng chán hay không đáng chán?Ai là bạn tri âm của con người tài hoa ấy? Nàng Chu Kiều Oanh trong Giấc mộng con hay kỹ nữ Vân Anh trong Thề non nước?
Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm…
Ðời đáng chán biết thôi là đủ“Nên chăng?” Thi sĩ trả lời: Nên!; nhà nho trả lời: Không! Nhà nho đã thắng. Thắng rất dễ dàng vì thi sĩ, ngoài một vài phút quá chán chường, cũng phản đối tư tưởng chán đời. Thi sĩ là một người épicurien.
Sự chán đời xin nhủ lại tri âm
Nên chăng? Nghĩ lại kẻo nhầm.
Thiên Tào tra sổ xét vừa xongNho sĩ đeo lên vai một sứ mệnh. Nhìn quanh ngó quẩn thấy thiên hạ bộn bề, mặt đất thênh thang không bờ bến, chàng lo ngại cho công việc thi hành sứ mệnh của mình. Chàng vội thu hẹp phạm vi hoạt động vào một cõi. Nhân loại thu hẹp trong biên giới quốc gia. Lòng yêu đời biến thành lòng yêu nước.
Ðệ sổ lên trình Thượng Ðế trông:
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Ðầy xuống hạ giới về tội ngông”
Trời rằng: “Không phải là Trời đầy
Trời định sai con một việc này
Là việc thiên lương của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay.
Công danh sự nghiệp mặc đờiNgông và mộng ở Tản Ðà có hai thứ ngông: cái ngông của nhà nho và cái ngông của thi sĩ. Một cái dùng làm phương châm sinh hoạt, một cái dùng làm đề hứng thơ ca. Một cái ứng dụng vào đời, một cái ứng dụng vào mộng. Hai cái giảng nghĩa lẫn nhau, liên kết với nhau, in vào thơ Tản Ðà một sắc thái đặc biệt.
Bên thời be rượu bên thời bài thơ
Ngồi đây ta nói sự đời
Ta ngồi ta nói, Bóng ngồi bóng nghe
Cõi đời từ cất tiếng ve
Ðã bên ngọn lửa lập loè có nhau
Tương tri từ ấy về sau
Ðôi ta một bước cùng nhau chẳng dời
Bóng nghe bóng cũng gật đầu
Người đâu cũng giống đa tình
Ngỡ là ai lại là mình với ta
Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình sao một mà hai?
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!Giai nhân không gặp, tiên sinh tạo ra một cô tình nhân không quen biết, một kỹ nữ tài hoa (Vân Anh)
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng tinh như sương
Ðầm như mưa sa lạnh như tuyết
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì
Người ở phương nao ta chưa biết?”
Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu về địa cầu
Sông Ðà núi Tản nước Việt Nam
Câu tri kỷ cùng ai tri kỷRồi một lúc ngẫu hứng, tiên sinh kết tinh tri kỷ và giai nhân vào một người đẹp rất thông minh: nàng Chu Kiều Oanh. Từ đấy về sau tiên sinh chỉ giao thiệp bằng tinh thần với con người mộng tưởng ấy. Ngoài nàng ra, ai cũng nhỏ bé, ai cũng tục tĩu. Mà nàng là ai? Nàng chỉ là tiên sinh vậy. Tinh thần duy ngã độc tôn, ở Tản Ðà, phát triển đến cực độ. Tiên sinh chỉ nhìn thấy mình, chỉ nói đến mình, chỉ ca tụng có mình.
Chuyện chung tình ai kể chung tình
Bụi hồng vắng vẻ mắt xanh
Mình ơi ta nhớ mà mình quên ta
Non xanh xanhNgâm xong, tiên sinh giải thích: “Ông tính, Chiêu Quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say rượu đứng dậy múa. Tây Thi cất giọng hát mà mình ngồi nghe thì còn gì khoái hơn nữa! Bấy giờ mình cứ tưởng mình chính là Ðường Minh Hoàng trong cung điện đang cùng mỹ nhân thưởng thức điệu Nghê Thường.” Tiên sinh cười lớn, kết luận: “Nghĩ lúc ấy thật cũng sướng cho cái đời văn sĩ của mình!”
Nước xanh xanh
Nước non như vẽ bức tranh tình
Non nước tan tành
Giọt lệ tràn năm canh!
Ðêm năm canh
Luỵ năm canh
Nỗi niềm non nước
Ðố ai quên cho đành?
Quên sao đành?
Nhớ sao đành?
Trần hoàn xa cách
Bồng Lai non nước xanh xanh!
Đăng bởi hoalucbinh vào 16/05/2006 14:56
Tản Ðà là biệt hiệu (tên ghép của núi Tản và sông Ðà), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1888 lại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (Bắc phần). Thân phụ là cụ Nguyễn Danh Kế, thân mẫu là ả đào hát hay, thơ giỏi, thường gọi Phủ Ba.
Tản Ðà là con dòng thứ. Ông có hai người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tài Tích và Nguyễn Cổn; ngoài ra, còn người anh cùng mẹ là Nguyễn Mạn.
Thuở nhỏ ông theo học Hán văn, sau nhờ người anh cả là Phó bảng Nguyễn Tài Tích làm đốc học, hết lòng chỉ dẫn nên ông nổi tiếng văn hay chữ tốt. Ngay lúc còn học ở trường Quy Thức, ông nổi danh với bài Âu Á nhị châu hiện thế, được các báo Trung Hoa ở Hương Cảng đăng trong mục xã thuyết.
Năm 1909, ông bị hỏng ở khoa thi Hương (Kỷ Dậu).
Năm 1912, ông yêu cô gái bán sách họ Ðỗ ở phố Hàng Bồ. Tản Ðà chiều theo ý muốn của nàng đã phải dùng bằng Ấm sinh để thi Hậu bổ, nhưng bị rớt vấn đáp. Mùa thu năm ấy, ông thi Hương lại hỏng luôn. Mối tình vì đó tan vỡ; nàng đi lấy chồng; Tản Đà đành ôm mối tình tuyệt vọng từ đây.
Sau khi ông anh cả Nguyễn Tài Tích mất, Tản Ðà ra làm báo. Vừa viết cho Ðông Dương tạp chí của ông Nguyễn Văn Vĩnh (1913), vừa viết cho Nam Phong thì bị ông Phạm Quỳnh vì muốn tranh thời danh mà thẳng tay mạt sát quyển Giấc mộng con nên không hợp tác được. Ra làm chủ bút tạp chí Hữu thanh (1921); nhưng vốn là nhà thơ, không quen nghề làm báo nên không bao lâu Hữu thanh đình bản. Ông lập Tản Ðà thư cục, rồi cho ra An Nam tạp chí (1926); nhưng cũng đình bản. Tản Ðà vào Gia Định (Nam phần) ở tại Xóm Gà viết cho báo Thần chung và Ðông Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ. Nhưng rồi ông lại ra Bắc tái bản An Nam tạp chí. Tờ báo này lại chết làm tan vỡ cái mộng “bồi lại bức dư đồ” của Tản Ðà. Ông đành quay về dịch thơ Ðường cho báo Ngày nay, chú thích Truyện Kiều, dịch Liêu trai chí dị cho nhà xuất bản Tân Dân.
Tác phẩm của ông suốt 25 năm trong nghề văn, nghề báo gồm có:
- Tiểu thuyết: Thề non nước, Trần ai tri kỷ (truyện ngắn, 1932), Giấc mộng lớn, Giấc mộng con I (1916), Giấc mộng con II (1932).
- Luận thuyết: Tản Ðà tùng văn (bản chính, bản phụ), Tản Đà văn tập (hai quyển gồm những bài viết ở Đông phương tạp chí in thành sách 1932), Tản Ðà xuân sắc (1934), Khối tình (1918).
- Giáo khoa: Lên sáu, Lên tám, Đài gương truyện, Quốc sử huấn mông, Ðàn bà Tàu (trích dịch Liệt nữ truyện).
- Dịch thuật: Đại học, Ðường thi, Liêu trai chí dị (40 truyện).
- Tuồng chèo: Tây Thi, Tỳ bà hành, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai.
Đến năm 1939, Tản Đà qua đời tại số 71 Ngã Tư Sở, ngày 20 tháng 4 năm Kỷ mão Âm lịch, nhằm ngày 7 tháng 5 năm 1939 tại Hà Nội.
*
Đem đặt Tản Đà lên hàng đầu chiếc chiếu thi đàn Việt Nam ở giai đoạn tiền chiến mở màn cho kỷ nguyên thi ca mới, có lẽ các bạn sẽ gợn lên một thoáng ngạc nhiên; nhưng rồi sự cảm xúc ấy sẽ lắng dịu ngay khi chúng ta hiểu rằng Tản Ðà là một hồn thơ cũ đã sớm cảm thông hồn thơ mới của lớp người trẻ; thi nhân đã đóng vai trò của nhịp cầu nối liền hai thế hệ tân và cựu.
Sau khi thực dân chiếm xong giải đất này, đặt ngay guồng máy cai trị, nhốt chặt muôn triệu linh hồn Việt nam, tuy chậm tiến trước sức mạnh vũ bão của cơ giới văn minh, nhưng vẫn là những tâm hồn khao khát cái cao rộng của trời xanh. Tản Ðà tuy không phải là chiến sĩ tích cực giải phá lao lung, nhưng cũng phát lộ được ý chí “bồi lại bức dư đồ”, giãi tỏ niềm ưu ái đối với quốc gia, dân tộc.
Tiếp đấy là một cuộc tấn công mới của thực dân trên địa hạt văn hoá; họ đem cái học thuật Tây phương gieo rắc sự hiểu biết cần thiết của một trách vụ phục dịch để củng cố thế đứng vững chắc trên thực dân địa; tuy nhiên nó cũng có khả năng tiêu huỷ căn bản văn hoá cổ truyền của một dân tộc nhỏ bé. Ðó là hồi chuông gióng lên báo hiệu sự bắt đầu suy tàn của nền học cũ. Hồn thể của Tản Ðà đã hấp thụ thâm đậm nền Nho học Ðông phương, những mong đem sự hiểu biết của mình để thi thố với đời. Nào ngờ, ngọn gió văn minh Tây phương thổi đùa cái căn bản tri thức của Tản Ðà tan như khói toả, cho nên Tản Ðà đã buồn đau khi phải chứng kiến sự thoái vị của nền cựu học.
Như để cứu vãng một thân bị lỡ làng, Tản Ðà đã không bắt chước các cụ thời xưa thường hay rút về an hưởng cảnh nhàn khi chán ngán một thực tế đắng cay, hoặc lấy tay bưng bít việc đời mặc kệ sự giả dối, lật lọng, phản trắc cứ tiếp diễn; Tản Ðà khác hơn, đã thả hồn mình trong Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, làm một cuộc viễn du vòng quanh thế giới như cố tìm hiểu tận cội rễ cái mới mẻ của nền tân học. Sau đấy, ta thấy Tản Ðà như làm cuộc cách mạng trong tâm hồn, tư tưởng liền biến đổi, thu được khoảng cách trước bước tiến của lớp trẻ; tiếng lòng của thi nhân được diễn đạt thành tiếng tơ réo rắt giữa cái tân kỳ của lớp người mới mà ta không cảm mấy bị lỗi nhịp hoặc sượng sùng; vì lúc bấy giờ Tản Ðà đã trang bị cho mình những gì cần thiết trong cuộc hoà nhạc. Cũng có cái lãng mạn của J. Leiba hay Hồ Dzếnh sau khi “bị tiếng sét ái tình” của người con gái họ Ðỗ; cũng có cái mộng mơ hư thực của Lưu trọng Lư, Thế Lữ; cũng có nỗi niềm tha thiết với quê hương trong mấy vần thơ của Thâm Tâm, Trần huyền Trân; lại có cái say sưa của Vũ hoàng Chương; Tản Ðà còn vượt bực hơn thi nhân trẻ ở cái ngông. Một cái ngông mà Trời còn chạy mặt; nó đã trở thành một bản án của vị trích tiên Tản Ðà còn ghi rành rành trong quyển sổ Thiên tào:
Bẩm quả có tên “Nguyễn khắc Hiếu”Bây giờ ta thử lượt qua khái quát những dòng tư tưởng của Tản Ðà.
Ðày xuống hạ giới về tội ngông.
(Bầu trời)
Quái lạ vì sao cứ nhớ nhau?Nhịp lòng dậy lên niềm thổn thức khi thẫn thờ cô độc đứng dưới ánh trăng suông, thảng thốt thi nhân kêu lên như than thở:
Nhớ nhau đăng đẳng suốt đêm thâu.
Bốn phương mây nước người đôi ngả,
Hai gánh tương tư một gánh sầu.
Mình ơi có nhớ ta chăng?Nhớ thì vẫn nhớ đấy, nhưng từ lúc chàng trượt kỳ thi Hậu bổ, rồi lại thi Hương lần nhì hỏng nốt, con chim hồng của thi nhân vội tung cánh tuyệt mù, để lại một tâm hồn sầu tủi lỡ dở bước đường mây, tan rã giấc mộng tình. Ta hãy nghe thi nhân kêu đau trong những vần thơ nhẹ nhàng, gợi cảm:
Nhớ mình đứng tựa ánh trăng ta sầu.
Duyên hồ thắm bổng dưng phai lạt,
Mối tơ vương đứt nát tan tành,
Tấm riêng, riêng những thẹn mình,
Giữa đường buôn đứt gánh tình như không!
Ái ân thôi có ngần này,Thực tế quá đắng cay, chua chát! Thi nhân xoay đường tình vào cõi mộng. Một Giấc mộng con cũng đã làm thoả mãn yêu đương còn hơn mười năm nuôi dưỡng ái tình cùng người đẹp. Tản Ðà đã đem thực tế và cõi mộng ra so sánh:
Thề nguyền non nước đợi ngày tái sinh...
Nhớ mộngThất bại đường tình ở hiện thực, thi nhan xây giấc mộng tình cùng người con gái ở tận trời Tây, nàng Chu Kiều-Oanh, phải chăng là hình ảnh nàng Ðỗ thị? Ở Giấc mộng con, chúng ta còn thấy bóng dáng người con gái mến yêu; đến bài Tống biệt, tình ái của thi nhân lờ mờ trong sương phủ. Hãy đọc:
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi,
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
Những lúc canh gà ba cốc rượu,
Vài khi cánh điệp bốn phương trời.
Tìm đâu cho thấy người trong mộng,
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?
(Giấc mộng con)
Tống biệt*
Lá đào rơi rắc lối Thiên thai,
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi,
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai.
Ước cũ duyên thừa, có thế thôi!
Ðá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động,
Ðầu non,
Ðường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Vịnh bức dư đồ ráchTình yêu nước của Tản Ðà nhẹ nhàng, loáng thoáng. Sau khi người anh cả chết, ông nhất quyết ra làm báo vì nghĩ rằng đấy là phương tiện để ông dùng ngòi bút khí giới muôn đời của kẻ sĩ đóng góp với non sông. Tản Ðà đã lập chí như thế nào? Ta hãy nghe:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười,
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại,
Mà sau con cháu lấy làm chơi!
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ,
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi!
Phận nam nhi tang bồng là chí,Giá lúc bấy giờ lòng ông đen tối, ham chạy theo bả lợi danh, chỉ cần đồng ý với thực dân Vayrac, ra làm quan thì thoát ngay cảnh nghèo dễ như bỡn. Nhưng không, lòng ông đã nặng thề cùng non nước:
Chữ trượng phu ý khí nhường ai.
Non sông thề với hai vai,
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son.
Thề non nước*
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời “nguyện nước thề non”,
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời Tây ngã bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa.
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước không nguôi lời thề.
Lại sayTừ say đến ngông chỉ là một bước lân cận. Nếu tình yêu đã choán nhiều chỗ trong tác phẩm của ông, thì tánh ngông cũng không chịu kém. Có người viết về cái ngông của Tản Ðà như sau:
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thì hư vậy, say thì cứ say.
Ðất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?
Say chẳng biết phen này là mấy,
Nhìn non xanh chẳng thấy lại là say
Quái! Say sao? Say mãi thế nầy?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh,
Thê ngôn tuý tửu chân vô ích.
Ngã dục tiêu sầu thả tự do.
Việc trần ai, ai tỉnh, ai lo,
Say luý tuý nhỏ to đều bất kể.
Trời đấy nhỉ! Cái say là sướng thế!
Vợ khuyên chồng, ai dễ đã chừa ngay,
Muốn say lại cứ mà say.
Nếu đọc thơ Tản Ðà trên mọi khía cạnh mà không đọc những bài thơ cũng như những đoạn văn về ngông của ông thì thật là một lỗi lầm rất lớn và có thể cho rằng như vậy chính là chưa đọc hết thơ của Tản Ðà!Nếu ở mười tám năm trước đây, một Trần Tế Xương suốt đời phải lận đận lao đao vì khoa cử công danh mà nảy ra tư tưởng chán đời đến độ bất cần sự đời, đâm ra lêu lỏng ăn chơi, nổi tiếng là:
Vị Xuyên có bác Tú Xương,hay:
Quanh năm ăn quỵt, chơi lường mà thôi.
Một ngọn đèn xanh, một quyển vàng,Thật ra ngông không ai hơn.
Bốn con làm lính, bố làm quan.
Quạt nước chưa xong con nhảy ngược;
Trống chầu chưa dứt, bố leo thang.
Ôi trời! ôi đất! ôi là tết!hay:
Tháng cận năm cùng, gạo cũng hết.
(Than tết)
Tết đến năm nay nghĩ cũng buồn,Với cảnh nghèo cùng quẫn, tiền bạc không có, vay trước trả sau, Tản Ðà quá chán chường cuộc sống, nảy sinh tư tưởng bất cần đời, vì ông tin rằng “bôn ba chẳng qua thời vận” rồi ông đâm ra liều lĩnh, ăn chơi cho thoả thích, mặc đến đâu thì đến. Làn văn chương chẳng cần mực thước, vui thì làm, buồn thì nghỉ. Những điều vừa nói, ta thấy tâm trạng của thi nhân qua bài Còn chơi, tiêu biểu khuynh hướng ngông của tác giả:
Tiền thì không có, nợ đòi luôn.
(Tết than việc nhà)
Còn chơiBất mãn với thời thế, Tản Ðà cũng như bao nhiêu người khác, những lúc quá ê chề chán nản cho cuộc sống hẩm hiu, người ta thường sống trong cõi mộng, nuôi một hy vọng ở tương lai sẽ sáng sủa, thắm tươi hơn, vì tin rằng “hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai” nên thi nhân tự hỏi: “có lẽ ta đâu mãi thế này”, bởi thế cho nên Tản Ðà mơ mộng thật nhiều, mơ mộng cuộc sống sẽ huy hoàng, tên tuổi sẽ sáng chói, những tác phẩm sẽ bán thật nhiều để điểm tô cho cuộc đời thêm khởi sắc, đây ta hãy nghe thi nhân kể lại giấc mơ đó trong bài:
Ai đã hay đâu tớ chán đời,
Ðời chưa chán tớ, tớ còn chơi.
Chơi cho thật chán, cho đời chán,
Ðời chán nhau rồi, tớ sẽ thôi.
Nói thế, can gì tớ đã thôi,
Ðời đương có tớ, tớ còn chơi.
Người ta chơi đã già đời cả,
Như tớ năm nay mới nửa đời.
Nửa đời chính độ tớ đương chơi,
Chơi muốn như sao thật sướng đời.
Người đời ai có chơi như tớ,
Chơi cứ bằng văn mãi chửa thôi.
Chơi văn sướng đến thế thì thôi,
Một mảnh trăng non chiếu cõi đời.
Văn vận nước nhà đương buổi mới,
Như trăng mới mọc, tớ còn chơi.
Làng văn chỉ thiếu khách đua chơi,
Dan díu, ai như tớ với đời.
Tớ đã với đời dan díu mãi,
Muốn thôi, đời cũng chửa cho thôi.
Ðời đương dang díu, chửa cho thôi,
Tớ dám xa xôi để phụ đời.
Vắng tớ bấy lâu, đời nhớ tớ,
Nhớ đời, nên tớ vội ra chơi.
Tớ hãy chơi cho qúa nửa đời,
Ðời chưa quá nửa, tớ chưa thôi.
Tớ thôi, tớ nghĩ buồn cho tớ,
Buồn cả cho đời vắng bạn chơi.
Nào những ai đâu, bạn của đời?
Sao mà bỏ vắng, ít ra chơi?
Chớ ai chờ mãi, ai đâu tá?
Hay ngán cho đời chẳng muốn chơi?
Nếu tớ như ai: cũng ngán đời,
Ðời thêm vắng bạn, lấy ai chơi?
Cuộc đời tớ nghĩ chưa nên ngán,
Nếu ngán thời xưa tớ đã thôi.
Tớ nhớ năm xưa nửa ngán đời,
Nghĩ đi, nghĩ lại, lại ra chơi.
Mê chơi cho tới thành dan díu,
Ðời dẫu cho thôi, tớ chẳng thôi.
Nghĩ tớ bao nhiêu, lại nghĩ đời,
Nghĩ đời như thế, dám nào thôi.
Còn đời, còn tớ, còn chơi mãi,
Chơi mãi cho đời có bạc chơi.
Tớ muốn chơi cho thật mãn đời,
Ðời chưa thật mãn; tớ chưa thôi.
Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng!
Dù chóng hay lâu, tớ hãy chơi.
Trăm năm, tớ độ thế mà thôi,
Ức, triệu, nghìn năm chửa hết đời.
Chắc có một phen đời khóc tớ.
Ðời chưa khóc tớ, tớ còn chơi.
Trăm năm còn độ bấy nhiêu thôi,
Ngoài cuộc trăm năm, tớ dặn đời.
Ức, triệu, nghìn năm đời nhớ tớ.
Tớ thôi, tớ cũng hãy cùng chơi.
Bút đã thôi rồi, lại chửa thôi,
Viết thêm câu nữa, hỏi đời chơi:
“Lộng hoàn”này điệu từ đâu tới?
Hoạ được hay không? Tớ đố đời.
Hầu TrờiÐọc qua ta thấy cái ngông của Tạn Ðà nhẹ nhàng, ý nhị, không quá trắng trợn như cái ngông của ông Tú Vị Xuyên Trần Tế Xương:
Ðêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn, thật phách, thật thân thể,
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!
Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước nằm ngâm văn.
Chơi văn ngâm chán, lại chơi trăng,
Ra sân cùng bóng đi tung tăng.
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống,
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
“Tiếng ngâm vang cả sông Ngân hà.
“Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
“Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”
Ước mãi bây giờ mới gặp Tiên!
Ngườ Tiên nghe tiếng lại như quen
Văn chương nào có hay cho lắm,
Trời đã sai gọi thời phải lên.
Theo hai cô Tiên lên đường mây,
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói oai rực rở!
Thiên môn Ðế khuyết như là đây?
Vào trông thấy Trời, sụp muốn lạy,
Trời sai Tiên nữ dắt lôi dậy,
Ghế bành như tuyết, vân như mây,
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đây.
Tiên đồng pha nước, uống vừa xong,
Bỗng thấy chư Tiên đến thật đông,
Chung quanh bày ghế ngồi la liệt,
Tiên bà, Tiên cô, cùng Tiên ông.
Chư Tiên ngồi quanh đã tỉnh túc,
Trời sai pha nước để nhắp giọng.
Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe,
“Dạ, bẩm lạy Trời, con xin đọc.”
Ðọc hết văn vần, sang văn xuôi,
Hết văn thuyết-lý, lại văn chơi.
Ðương cơn đắc ý đọc đã thích,
Chè trời nhắp giọng càng tốt hơi!
Văn dài, hơi tốt ran cung mây,
Trời nghe trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi.
Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày.
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Ðọc xong mỗi bài, cùng vỗ tay.
“Bẩm con không dám man cửa Trời,
“Những các văn, con in cả rồi:
“Hai quyển “Khối tình” văn thuyết lý:
“Hai “Khối tình con” là văn chơi:
“Thần tiên”, “Giấc mộng” văn tiểu thuyết:
“Ðài gương”, “Lên Sáu” văn vị đời;
“Quyển “Ðàn bà Tàu” lối văn dịch;
“Ðến quyển “Lên Tám” nay là mười,
“Nhờ Trời văn con mà bán được,
“Chửa biết con in ra mấy mươi!”
Văn đã giàu thay, lại lắm lối,
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười.
Chư tiên ao ước, tranh nhau dặn:
“Anh gánh lên đây bán chợ trời.”
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
“Văn trần được thế chắc có ít?
“Lời văn chuốt đẹp như sao băng!
“Khi văn hùng mạnh như mây chuyển!
“Êm như gió thoảng, tinh như sương!
“Ðầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
“Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
“Người ở phương nao? Ta chửa biết!”
- “Dạ, bẩm lạy Trời, con xin thưa:
“Con tên “Khăc Hiếu” họ là “Nguyễn”
“Quê ở Á-châu về Ðiạ-cầu.
“Sông Ðà, núi Tản, nước Nam Việt.”
Nghe xong, Trời ngợ một lúc lâu,
Sai bảo Thiên-Tào lấy sổ xét.
Thiên Tào tra sổ xét vừa xong,
Ðệ sổ lên trình Thượng đế trông:
“Bẩm quả có tên “Nguyễn khắc Hiếu”
“Ðày xuống hạ giới về tội ngông”
Trời rằng: “Không phải là trời đày,
“Trời định sai con một việc này:
“Là việc “thiên lương của nhân loại”
“Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
- “Bẩm trời, cảnh con thật nghèo khó,
“Trần gian thước đất cũng không có.
“Nhờ trời năm xưa học ít nhiều,
“Vốn liếng còn một bụng văn đó.
“Giấy người, mực người, thuê người in,
“Mướn cửa hàng người bán phường phố.
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo!
“Kiếm được đồng lãi thật rất khó!.
“Kiếm được có ít, tiêu phải nhiều,
“Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
“Lo ăn, lo mặc suốt ngày tháng,
“Học ngày một kém, tuổi càng cao!
“Sức trong non yếu, ngoài chen rấp,
“Một cây che chống bốn năm chiều.
“Trời lại sai con việc nặng quá,
“Biết làm có nổi, mà dám theo?”
- Rằng: “Con không nói, Trời đã biết,
“Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết.
“Cho con cứ về mà làm ăn,
“Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết.
“Cố xong công việc của Trời sai,
“Trời sẽ cho con về Ðế khuyết”
Vâng lời Trời dạy, lại xin ra,
Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn.
Xe trời đã chực ngoài Thiên môn,
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt.
Hai hàng luỵ biệt giọt sương rơi,
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi.
Thiên tiên ở lại, Trích tiên xuống,
Theo đường không khí về trần ai.
Ðêm khuya khí thanh, sao thưa vắng,
Trăng tà đưa lối về non Ðoài.
Non Ðoài đã tới quê trần giới,
Trông lên chư tiên không còn ai!
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy,
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.
Một năm ba trăm sáu mười đêm,
Sao được đêm đêm lên hầu Trời.
Vị xuyên có bác Tú Xương,hay là:
Quanh năm ăn quỵt chơi lường mà thôi.
Ông trông lên bảng thấy tên ông,Trình bày cái ngông của mình, trước mặt Trời thi nhân kể lể tâm sự của một khách văn chương như ông, văn rất hay nhưng khổ nỗi “văn chương hạ giới rẻ như bèo”, bởi thế cho nên:
Ông tớp rượu vào, ông nói ngông,
Cụ Sứ có cô con gái đẹp,
Lăm le xui bố cưới làm chồng.
Kiếm được đồng lãi thật rất khó!nhưng:
Kiếm được có ít, tiêu phải nhiều.Chính vì thế mà:
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.Trong khi đó thì:
Lo ăn, lo mặc, suốt ngày tháng.
Sức trong non yếu, ngoài chen rấp,Chính vì những ý nghĩ đó mà Tản Ðà ngông và muốn:
Một cây che chống bốn năm chiều.
Tớ muốn chơi cho thật mãn đời,Tình và ý thơ của Tản Ðà còn bàng bạc trong các tác phẩm. Một phần nhỏ mọn của quyển sách này không làm sao luận cạn. Từ cái hướng nhắm của hai tác phẩm Lên sáu và Lên tám, tác giả đã lấy sự giáo dục làm lợi khí trong việc đào tạo tinh thần đoàn kết và lòng thương nước của trẻ con; qua Ðài gương truyện và Ðàn bà Tàu đã nói nhiều về trách vụ người phụ nữ; đến lòng ái quốc của tiên sinh được bộc lộ rải rác trong những văn thi phẩm mà chúng tôi đã luận qua khái quát ở phần trên.
Ðời chưa thật mãn, tớ chưa thôi.
Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng?
Dù chóng hay lâu tớ hãy chơi.