Thơ » Việt Nam » Cận đại » Tăng Bạt Hổ
Thơ » Việt Nam » Cận đại » Trần Tán Bình
Đăng bởi Lịch Sử Việt vào 11/08/2013 17:02, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 29/12/2018 09:11
(Từ Nhật Bản ký hồi Thống sứ phủ)
Á Tế Á năm châu là bậc nhất,
Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn.
Cuộc đời mở hội doanh hoàn,
Anh hùng bốn bể giang san một nhà.
Gẫm từ thuở Âu La tìm đất,
Vượt Chi Na qua Nhật đến Triều Tiên.
Xiêm La, Ấn Độ gần liền,
Cao Miên, Đại Việt thông miền Ai Lao.
Thịt một miếng trăm dao xâu xé,
Chiếc kim âu chẳng mẻ cũng khôn lành.
Tôi con Pháp, tớ thầy Anh,
Nín hơi Đại Đức, nép mình cường Nga.
Gương Ấn Độ còn xa đâu đó,
Chẳng máu đào, nhưng cũng họ da vàng
Mênh mông một dải Đông Dương,
Nước non quanh quất trông càng thêm đau.
Cờ tự lập đứng đầu phất trước,
Nhật Bản kia vốn nước đồng văn,
Thái Đông nổi hiệu duy tân,
Nhật Hoàng là đấng anh quân ai bì?
Dòng Thần Vũ riêng về một họ,
Vùng Phù Tang soi tỏ góc trời,
Kể đời trăm hai mươi hai,
Năm hai nghìn lẻ năm mươi có thừa.
Sẵn cơ hội trời đưa lại đó,
Chốn kinh thành Thần Hộ mới dời sang.
Dẹp Mạc Phủ, bỏ phiên bang,
Đổi dòng chính sóc, thay đường y quan.
Khắp trong nước dân đoàn xã hội,
Nhà học đường đã ngoại ba muôn.
Việc kỹ nghệ, việc bán buôn,
Nơi lò hấp bát, nơi khuôn đúc đồng.
Chè, lụa, tơ, gai, bông, nhung, vũ,
Mọi đồ sơn, vân mẫu, pha lê.
Dao với quạt, tán với xe,
Đủ mùi hải lục, hợp nghề nông thương.
Bốn lăm triệu kể lương dân số,
Các sắc quân ước độ triệu người.
Chu vi mặt đất rộng dài,
Tính vuông Pháp lý bốn mươi vạn thừa.
Bốn mốt huyện năm xưa mới đổi,
Đầu Nại Xuyên mà cuối Lộc Nhi.
Đông Kinh ba phủ cận kỳ,
Ngoài thì Đại Bản, trong thì kinh đô.
Tỉnh Bắc Hải dư đồ quanh bể,
Huyện Xung Thằng chưa kể đất Lưu Cầu.
Gò Đối Mã bốn bể sâu,
Nghiêm Đồng đặt súng, Trúc Phu đỗ tàu.
Nhà dây thép đâu đâu cũng đặt,
Truyền thông thương khắp mặt ngoại dương.
Kìa thiết lộ, nọ ngân hàng,
Đăng đàn, báo quán, ngổn ngang phụ đầu.
Cuộc biến pháp năm đầu Minh Trị,
Ba mươi năm dân trí mở mang,
Chữ Hán tự, chữ Tây dương,
Mọi bài diễn thuyết, các phường chuyên môn.
Đất Đại Bản mở đồn đúc súng,
Xưởng Đông Kinh riêng cũng một toà.
Trường Kì thuyền cục mấy nhà,
Dã Tân, Tu Hạ ấy là hải quân.
Tàu với súng trăm phần chấn chỉnh,
Lại ngư lôi bác đĩnh ai tày.
Quan quân luyện tập đêm ngày,
Mọi nghề so với Thái Tây kém gì.
Đội mã bộ, lục sư các trấn.
Từ Hà Di đến tận Tát Ma.
Tám đạo rộng, bốn gò xa,
Phú sơn cao ngất, Tỳ Bà trong veo.
Tướng, tá, uý, cũng theo Tây lệ,
Đủ vương binh, pháo vệ chỉnh tề,
Đồng bào nghĩa khí gớm ghê,
Cái thù nô lệ, ắt thề giả xong.
Năm Giáp Ngọ đùng đùng sóng gió,
Vượt quân sang thẳng trỏ Đại Hàn.
Quân Lục Áo, tướng Thái Sơn,
Ra tay cho biết cái gan anh hùng.
Đông tam tỉnh thu trong tay áo,
Bọn trắng da ngơ ngáo giật mình,
Cuộc hoà đâu bất thình lình,
Chủ trương này dễ Nga đình vẽ khôn.
Bụng ái quốc ghê hồn Nhật Bản,
Giận xung quan khôn cản nghĩa đồng cừu.
Đã toan trở súng quay tàu,
Y Đằng can khéo mưu sâu vãn hồi.
Nhận bồi khoản Bành, Đài nhượng địa,
Trong mười năm rồi sẽ chịu nhau.
Nga kia nước lớn lại giàu,
Bên giường giấc ngáy, dễ hầu chịu yên,
Hàn với Mãn lợi quyền thu sạch,
Xe Nhĩ Tân, tàu lạch Sâm Uy.
Cõi Đông đương cuộc an nguy,
Có ta, ta phải phù trì chúng ta.
Việc khai hấn chắc là quyết liệt,
Đất Á Đông thấy huyết phen này.
Giáp Thìn trong tháng Chạp tây,
Chiến thư hai nước đợi ngày giao tuy.
Trận thứ nhất Cao Ly lừng tiếng,
Khắp toàn cầu muôn miệng đều khen.
Sa trường xung đột mấy phen,
Ngọn cờ Áp Lục, tiếng kèn Liêu Đông.
Châu Lữ Thuận mơ màng khói bạc,
Thành Phụng Thiên ngơ ngác non xanh.
Hải quân một trận tan tành,
Thái Hoa cắt núi, Đông Thanh xẻ đường.
Sức hùng vũ ai đương lại được,
May điều đình có nước Hoa Kỳ.
Khéo điều hoà cuộc giải vi,
Nếu không Bỉ Đắc còn đâu là đời.
Hội vạn quốc diễn bài thương nghị,
Chấu mới voi chuyện cũng nực cười.
Xem trong hoà khoản mười hai,
Bề nào Nga cũng chịu lui trăm phần.
Cuộc tang hải khuất thân từng lúc,
Áng liệt cường nay cũng chen vai.
Khen thay Nhật Bản anh tài,
Từ nay danh dự còn dài về sau.
Ngồi mà nghĩ thêm sầu lại tủi,
Nước Nam mình gặp buổi truân chuyên.
Dã man quen thói ngu hèn,
Cũng như Minh Trị dĩ tiền khác đâu.
Từ giống khác mượn màu bảo hộ,
Mưu hùm tinh, lừa lũ voi già.
Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.
Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.
Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước culi.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kỳ.
Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái,
So muôn người như giải lũ tù.
Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?
Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da,
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao.
Đôi bên, bên nọ, bên cừu,
Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.
Việc tân học phải đem dựng nước,
Hội dân đoàn, cả nước với nhau.
Sự buôn phải lấy làm đầu.
Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai.
Bây giờ kể còn dài chưa hết,
Chữ tự do xin kết bên lòng.
Gương Nhật Bản đất Á Đông,
Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm.
Bốn mươi triệu đồng tâm nhất đức,
Mãnh hổ kia đem sức với quần dương.
Hiệu cờ nổi chữ tự cường,
Thay bầy nô lệ làm phường văn minh.
Kìa thuở trước như Anh, Pháp, Đức,
Cũng chẳng qua cùng cực tắc thông,
Hoạ may trời có chiều lòng,
Việt Nam dựng lại, phương Đông có mình.
Thân phiêu bạt đã đành vô lại,
Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân.
Chinh Nga nhân lúc hoàn quân,
Tủi mình bô bá, theo chân khải hoàn.
Bưng chén rượu ân ban hạ tiệp,
Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu,
Thiên Nam mù mịt ngàn dâu,
Gió Tây như thồi dạ sầu năm canh.
Biết bao nỗi bất bình khôn giải.
Mượn bút hoa mà cải quốc âm,
Thân giàn bao quản cát lầm,
Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/01/2019 09:37
Nhưng lối văn biền ngẫu này không có tánh cách bình dân, chỉ để cổ động trong hàng trí thức. Phổ biến trong dân chúng, là lối lục bát, song thất lục bát, vè, thơ Đường luật.
Như những bức thư máu của cụ Phan Sào Nam ở hải ngoại gởi về, như bài Đề tỉnh quốc dân của cụ Tăng Bạt Hổ ở Nhật Bản, v.v… Những áng văn này đã gây một ảnh hưởng lớn trong nước. Thật chẳng khác những tiếng chuông khua, tiếng trống gióng, vang dội lúc canh khuya, khiến quốc dân đương bị bọn Thực Dân Phong Kiến ru ngủ say mê, vùng tỉnh dậy…
Đây thử trích đôi đoạn trong bài Đề tỉnh quốc dân của cụ Tằng Bạt Hổ:
Á Tế Á năm châu là bậc nhất,Đó là khúc đầu nói đại lược về cảnh sống chung hoà bình của dân tộc cõi Á Đông trước khi người  La Ba, tức người Âu Châu đến, và cảnh chiến tranh do người Âu gieo vào Đông Á.
Người đã nhiều, đất đai lại rộng hơn.
Cuộc đời mở hội doanh hoàn,
Anh hùng bốn bể giang san một nhà.
Gẫm từ thuở Âu Ba tìm đến,
Việc chiến tranh qua Nhật đến Triều Tiên
Xiêm La Diến Điện gần liên,
An Nam, Chân Lạp thẳng miền Ai Lao.
Thịt một tấm trăm dao cắt xé,
Chiếc Kim âu chẳng mẻ cũng không lành
Tôi con Pháp, tớ thầy Anh,
Nín hơi Đại Đức, nép mình Cường Nga!
Gương Ấn Độ có xa chi đó,
Chẳng máu đào cũng họ da vàng.
Mênh mông một giải Đông Dương,
Nước non quanh quất trông càng thêm đau.
Trận thứ nhất Cao Ly lừng tiếng,vân vân…
Khắp hoàn cầu muôn miệng đều khen.
Sa trường xung đột mấy phen,
Ngọn cờ Áp Lục tiếng kèn Liêu Đông.
Cửa Lữ Thuận trập trùng sóng bạc,
Thành Phụng Tiên ngơ ngác khói xanh.
Hải quân một trận tan tành,
Thái Hoà cắt nẻo, Đông Kinh rẽ đường.
Càng nghĩ lại thấm lâu càng tủi,Đó là người nước… Vì người nước như thế nên việc nước đều ở trong tay Thực Dân Pháp. Chúng muốn làm gì thì làm. Từ vua quan chí dân đều là đầy tớ của chúng, “Kẻ chức Bồi, người chức cu ly”. Chúng lại đánh nhiều thứ thuế lạ lùng:
Nước Nam nhà gặp buổi truân chuyên.
Trăm quan quen thói ngu hèn,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu…
Nhiều hạng thuế kể sao cho xiết,Thuế xi là thuế nhà xí! Không món gì sản xuất ra mà không đánh thuế, không việc gì làm ra mà không chịu thuế! Cho đến cái thứ hôi thúi kia mà cũng đánh thuế. Chánh sách của Thực Dân cay nghiệt biết bao nhiêu!
Thuế “xi” kia mới thiệt lạ lùng!
Thật lắm lúc bầm gan tím ruột,Tác giả khuyên phải học cái hay cái giỏi của nước ngoài, phải chú trọng kỹ nghệ, thương mãi…, phải lập liên đoàn để bênh vực quyền lợi cho nhau…, phải mở mang việc học hành, lấy Nhật Bản và Lang Sa làm gương, chớ không cần tìm kiếm đâu xa. Nếu chúng ta kết một lòng lo với nhau, thì:
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da,
Cũng hòn máu đỏ, con nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm than
Than ôi! Bách Việt hà san
Thông minh đã sẵn khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mộng tỉnh chưa? Chưa tỉnh!
Anh em mình phải tính sao đây?
Đường học thức dân đà mở rộng,Bài văn kết thúc bằng mấy câu nói qua thân thế tác giả từ lúc xa quê hương, và nỗi lòng lúc được vua Nhật thưởng công đã giúp Nhật Bổn đánh Nga:
Người Lang Sa rồi cũng nể nang.
May ra được chữ bình hàng,
Trời Nam đứng vững phương đông một mình.
Thân phiêu bạt đã đành vô lại,Đoạn kết văn chương cảm động nhất, và dư vị làm cho những ý tứ ở các đoạn trên thêm thấm thía vào lòng người.
Mấy năm nay Thượng Hải Hoành Tân.
Chinh Nga những lúc tùng quân,
Chút thân bồ bá theo chân khải hoàn.
Nâng chén rượu ơn ban hạ thiệp,
Gạt hàng châu khép nép quì tâu:
Trời Nam mù mịt ngàn dâu
Gió thu như thổi dạ sầu năm canh!
Biết bao nỗi bất bình chứa mãi,
Mượn bút hoa mà giải quốc âm,
Tấm thân bao quản cát lầm,
Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này…