Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Sơ Đường
3 bài trả lời: 2 bản dịch, 1 bình luận
1 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 28/07/2008 22:02, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 19/08/2020 15:14

靈隱寺

鷲嶺鬱岧嶢,
龍宮鎖寂寥。
樓觀滄海日,
門對浙江潮。
桂子月中落,
天香雲外飄。
捫蘿登墖遠,
刳木取泉遙。
霜薄花更發,
冰輕葉未凋。
夙齡尚遐異,
搜對滌煩囂。
待入天台路,
看余度石橋。

 

Linh Ẩn tự

Thứu Lĩnh uất thiều nghiêu,
Long cung toả tịch liêu.
Lâu quan thương hải nhật,
Môn đối Chiết giang triều.
Quế tử nguyệt trung lạc,
Thiên hương vân ngoại phiêu.
Môn la đăng tháp viễn,
Khô mộc thủ tuyền diêu.
Sương bạc hoa cánh phát,
Băng khinh diệp vị điêu.
Túc linh thượng hà dị,
Sưu đối địch phiền hiêu.

Đãi nhập Thiên Thai lộ,
Khan dư độ thạch kiều.

 

Dịch nghĩa

Núi Thứu rờ rỡ cao chót vót,
Cung rồng kín đáo yên tĩnh.
Lầu (cao) trông thấy mặt trời soi trên mặt biển,
Cửa nhìn ra thuỷ triều Chiết Giang lên xuống.
Cây quế trên mặt trăng rơi mất,
Hương trời do mây đưa đi.
Nắm dây mây leo tháp xa,
Làm máng đưa nước suối đi xa.
Sương mỏng hoa nở nhiều hơn,
Băng nhẹ lá cây chưa tàn.
Già sớm có gì lạ,
Làm thơ xoá phiền ồn ào.
Chờ tới lối vào Thiên Thai,
Xem ta qua cầu đá.


Chùa Linh Ẩn nay trong huyện Tây Hồ, tỉnh Chiết Giang, ở phía tây bắc núi Vũ Lâm. Chùa được xây từ đời nhà Tấn. Năm đầu Hàm Hoà (326) đời Tấn, một nhà sư người Ấn Độ ngắm núi Vũ Lâm kinh ngạc mà kêu lên rằng sao giống núi Linh Thứu là nơi đức Phật tổ Thích Ca cùng đệ tử trú ngụ. Vì sự kiện này mà chùa được gọi là Linh Ẩn, và Tống Chi Vấn gọi núi Vũ Lâm là Thứu Lĩnh ngay trong câu đầu bài này.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Cao Tự Thanh

Thiền môn cao chót vót,
Sông nước cảnh mơ màng.
Lầu sáng trăng thương hải,
Song rền sóng Chiết Giang.
Trong trăng lơ lửng quế,
Ngoài cõi phất phơ hương.
Trên tháp dây mây mọc,
Bên khe máng nước tràn.
Sương bay hoa vẫn nở,
Băng nhẹ lá chưa tàn.
Trăm tuổi có chi lạ,
Tìm thơ để ý nhàn.
Cảnh tiên đang mở lối,
Cầu đá đợi người sang.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Chuyện Lạc Tân Vương

Thái Bình quảng ký, Phật gia truyền kỳ, quyển 5, Dị tăng 5 chép từ Bản sự thi kể Khảo công Viên ngoại lang Tống Chi Vấn thời Đường có tội bị biếm làm quan nơi xa. Sau được tha về, tới Giang Nam, ghé chơi chùa Linh Ẩn. Gặp đêm trăng rất sáng, đi dọc hành lang ngâm nga, lại làm thơ rằng “Thứu Lĩnh hữu thiều nghiêu, Long cung toả tịch liêu”, tới hai câu kế dụng công tìm tứ lạ mà rốt lại vẫn không vừa ý. Có nhà sư già thắp đèn trường minh đăng, ngồi trên thiền sàng hỏi “Chàng trẻ đêm khuya không ngủ mà ngâm vịnh khó khăn, sao thế?”. Chi Vấn đáp “Đệ tử theo nghiệp thơ, ngẫu nhiên muốn đề thơ ở chùa, mà hứng trí chưa xứng ý”. Sư nói “Thử đọc hai câu kế xem”, Chi Vấn liền đọc. Sư ngâm nga hai ba lần, rồi nói “Sao không nói Lâu quan thương hải nguyệt, Môn đối Chiết Giang triều?”. Chi Vấn kinh ngạc, lạ lùng vì lời thơ đẹp đẽ, liền nối theo làm hết bài như sau “Quế tử nguyệt trung lạc, Thiên hương vân ngoại phiêu. Môn la đăng tháp viễn, Khô mộc thủ tuyền diêu. Sương bạc hoa canh phát, Băng khinh diệp vị điêu. Đãi nhập Thiên Thai lộ, Khan dư độ thạch kiều”, đưa hai câu thơ nhà sư tặng lên làm tuyệt cú của toàn bài. Sáng ra tới bái phỏng, thì không thấy đâu nữa. Sư trong chùa có kẻ biết chuyện, nói “Đó là Lạc Tân Vương”. Chi Vấn hỏi riết tới, đáp “Lúc Từ Kính Nghiệp thất bại, cùng Lạc Tân Vương chạy trốn, tìm không bắt được, tướng soái triều đình sợ để kẻ đầu sỏ lọt lưới sẽ mang tội lớn. Lúc ấy có mấy vạn người bị giết, nhân đó tìm hai cái xác có diện mạo hơi giống chặt đầu mang về dâng. Về sau tuy biết họ chưa chết nhưng cũng không dám truy bắt nữa. Cho nên Kính Nghiệp được làm sư ở Hành Sơn, hơn 90 tuổi mới chết. Lạc Tân Vương thì xuống tóc, đi du ngoạn khắp các danh sơn, tới chùa Linh Ẩn được một năm thì chết. Lúc ấy tuy thất bại, nhưng vì lấy tiếng khôi phục nhà Đường mà dấy quân nên được nhiều người che chở mà thoát chết”.

Về câu chuyện này, Đường thi kỷ sự, quyển 7 cũng chép tương tự, nhưng bài thơ có vài chữ khác là “Thứu Lĩnh uất thiều nghiêu, Lâu quan thương hải nhật”. Bài thơ trên có điểm lạ là câu “Tiên cảnh...” thất niêm, so với nhiều tài liệu khác thì còn thiếu hai câu “Túc linh thượng hà dị, Sưu đối địch phiền hiêu” trước hai câu kết, thêm vào thì quả nhiên không còn thất niêm nữa. Có điều hai bản Thái Bình quảng ký, Bắc Kinh Quảng bá học viện xuất bản xã, 1999 và Đường thi kỷ sự, Đỉnh Văn thư cục, Đài Bắc, 1971 đều thiếu hai câu ấy, rất khó nói là đều bị in thiếu. Nhưng Đường thi kỷ sự có tham khảo Bản sự thi, Thái Bình quảng ký cũng chú rõ câu chuyện trên là theo Bản sự thi, có thể Bản sự thi đã chép thiếu, cũng có thể bài thơ vốn như thế nhưng người sau sao chép thấy thất niêm đã bổ sung thêm hai câu nói trên. Nên ở đây xin bổ sung thêm hai câu ấy để tồn nghi.

Tuy nhiên vấn đề văn bản của bài thơ nói trên chỉ là một chuyện, vì bản ý của những người sao chép câu chuyện này là nhằm giới thiệu hai câu thơ được coi là của Lạc Tân Vương sau khi theo Từ Kính Nghiệp dấy quân chống Vũ Tắc Thiên bị thất bại phải đào vong, và đúng là hai câu ấy đã bộc lộ tâm tình ung dung tự tại mà vẫn ngạo nghễ thách thức kẻ cầm quyền của một người may mắn ra được ngoài vòng cương toả. Tóm lại con người ta thấy không ai làm gì được mình là làm tới ngay, người thường đã như thế, bọn nhà thơ lại càng như thế...


Cao Tự Thanh
Tháng 3.2008
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Núi Thứu cao ngồn ngộn
Cung rồng kín tịch liêu
Lầu đài dưới nắng biển
Trước cửa nước theo triều
Cây quế trên trăng rớt
Hương trời do mây phiêu
Nắm dây leo tháp thượng
Máng dẫn nước đi nhiều
Sương mỏng hoa thêm nở
Băng mềm lá chửa tiêu
Mau già đâu lạ quá
Thơ phú tan phiền khêu
Chờ lối Thiên Thai nhập
Xem ta qua Thạch kiều.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời