Đăng bởi Vanachi vào 17/03/2005 18:08, đã sửa 5 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 13/01/2021 21:58

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!

Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác, đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!

Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay...

         *

Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.

Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau...

Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa.

Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hoà bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.

Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

         *

Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước...”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều.

Bác đã lên đường, theo tổ tiên
Mác - Lê-nin, thế giới Người Hiền
Ánh hào quang đỏ thêm sông núi
Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!

Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.


6-9-1969

Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Ngữ văn 12 từ 2007.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (10 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Phân tích hình tượng cuộc đời Hồ Chí Minh qua bài thơ Bác ơi

Đề bài: Phân tích đoạn thơ sau để thấy các phương diện nổi bật, bao trùm nhất của con người và cuộc đôi Hồ Chí Minh qua sự cảm nhận của Tố Hữu trong bài thơ Bác ơi.

Bài làm

Phần tiếp theo của bài thơ đã tập trung thể hiện hình tượng Bác Hồ vừa cao đẹp, kì vĩ, vừa gần gũi, thân thương.

Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời
Bác ơi, tim Bác mênh mòng thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người
Lòng nhân đạo cao cả, bao la của Bác đã được Tố Hữu xúc động ngợi ca. Trái tim mênh mông của Người ôm ấp, bao bọc cả non sông, mọi kiếp người. Bác dùng tình yêu thương rộng dài, vô bờ của mình để nghĩ cho người, thương cho đời, bởi vậy mà nặng lòng, mà khắc khoải, mà chẳng được thảnh thơi.
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau...
Tình thương, nỗi lo, tấm lòng yêu thương của Bác không chỉ rộng dài theo không gian “năm châu” mà còn trải suốt chiều dài của thời gian “cho hôm nay và cho mai sau”. Tố Hữu đã nhận ra và ngợi ca đầy trân trọng nỗi đau đời, mối lo lắng đầy sâu rộng, bao la, dài lâu của Bác. Lí tưởng và lẽ sống cao cả của người cha già dân tộc là những niềm yêu, nỗi lo dành trọn cho con người dân tộc và năm châu, cho thế hệ này và thế hệ sau. Lẽ sống ấy vừa vĩ đại, cao lớn, vừa gần gũi, thiêng liêng như muôn mối lo của lòng mẹ, của tình nghĩa tử máu thịt.
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già
Tố Hữu đã dành một sự kính yêu, tôn thờ, trân trọng hết mực khi so sánh Bác với “trời đất của ta”. Tác giả say mê viết về tình yêu rộng lớn mà cụ thể, vĩ đại mà thân gần của Hồ Chủ tịch. Tình yêu rộng dài ấy khi dành những vật bé nhỏ, mong manh như ngọn lúa, cành hoa, khi hướng tới sự tự do thiêng liêng của mỗi cuộc đời, mỗi con người, khi chăm lo cho những đối tượng cụ thể: em thơ, người già. Đó là một tình yêu lớn của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa
Tố Hữu viết về ân nghĩa nặng sâu giữa Bác và miền Nam thân thương bằng những câu thơ tràn đầy nghĩa tình. Đó là ân nghĩa giữa cha và con, là nỗi nhớ mong của một tình cảm vừa máu thịt, thiêng liêng vừa gần gũi, thân thiết. Người đọc như cảm nhận được ánh nhìn dõi theo đầy lo lắng, yêu thương của người cha già dân tộc hướng về miền Nam, hướng về một phần máu thịt của Tổ quốc trong “từng bước”, trong “mỗi tin”.
Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hoà bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình
Niềm vui của Hồ Chủ tịch như toả rạng những câu thơ Tố Hữu. Tác giả đã so sánh niềm vui, nụ cười của Bác với ánh sáng rạng rỡ của bình minh, có tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến người đọc. Niềm vui đó không dành cho riêng mình mà Bác dành cho “mỗi mầm non, trái chửi cành, tiếng ca chung”. Đức hi sinh “nâng niu tất cả, chỉ quên mình” của Bác thật cao cả và lớn lao, đó là kết quả của một tình yêu lớn, một nhân cách vĩ đại, một con người dành trọn cuộc đời mình để dấn thân, cống hiến.
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muốn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Đức tính khiêm tốn, giản dị, đầy thân gần của Hồ Chủ tịch đã được Tố Hữu ngợi ca bầng những vần thơ đầy trân trọng, bằng những hình ảnh đầy sáng tạo, độc đáo. Cuộc đời thanh bạch, giản dị, dành trọn yêu thương cho cuộc đời, cho “chúng con” là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất của hình tượng Hồ Chí Minh. Sự đối lập hình ảnh “áo vải mong manh” và “tượng đồng”, “hồn muôn trượng” và “phơi những lối mòn” cũng như sự đối lập trong từng câu thơ giữa hai vế, đã khái quát được cả cuộc đời vĩ đại của Bác. Hồ Chủ tịch lớn lao và vĩ đại ngay từ chính sự giản dị, “hồn muôn trượng” cao cả, rộng lớn ngay trong cái “mong manh” của “áo vải”.

Những khổ thơ đầy trân trọng, ngợi ca của Tố Hữu đã thể hiện một cách tập trung hình tượng Bác Hồ. Lí tưởng và lẽ sống, niềm vui và tình thương, ân nghĩa và đức hi sinh, sự giản dị,... của Người đã được hiện lên vừa cụ thể, sinh động, vừa cao cả, lớn lao, khiến người đọc vừa có cảm giác gần gũi, thân thiết, vừa ngưỡng vọng, kính yêu vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.


(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)
644.14
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Hoàn cảnh ra đời và bố cục bài thơ Bác ơi

I. Tri thức khái quát

1. Nội dung tư tưởng
Bác ơi là bài thơ viết về đề tài lãnh tụ. Ngày 2/9/1969, một sự kiện lớn đã xảy ra Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ trần vĩnh biệt Người “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” nhiều nhà thơ, thậm chí cả những người chưa từng làm thơ bao giờ cũng làm thơ khóc Bác, trong đó có bài Bác ơi của Tố Hữu rất cảm động. Bài thơ như một tiếng khóc tiễn biệt, một “điếu văn bi hùng” bằng thơ. Thông qua tiếng khóc đau xót, bài thơ đã khắc hoạ hình tượng Bác Hồ. Một con người sống có lí tưởng cao cả, giàu tình nhân ái, ân nghĩa, sống khiêm tốn, giản dị và quên mình. Đồng thời bài thơ còn là sự bày tỏ tình cảm của mọi người Việt Nam trước sự ra đi của Bác.

2. Hình thức nghệ thuật
Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, của những tình cảm lớn, là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng trữ tình chính trị. Bài thơ Bác ơi tiêu biểu cho cảm hứng lãng mạn cách mạng, với giọng điệu trữ tình đặc trưng, ngọt ngào tha thiết của tình thương mến, Tố Hữu cất lên tiếng thơ bi hùng tràn đầy nỗi đau xót, tiếc thương vô hạn trước sự kiện Bác Hồ qua đời nhưng cũng rất tự hào. Trong niềm đau thương lớn, nhà thơ đã cảm nhận chính xác và thấu hiểu phẩm chất đạo đức cao cả, tuyệt vời trong sáng của Bác Hồ. Bài thơ khép lại bằng cảm nghĩ của mọi người Việt Nam trước sự ra đi của Bác. Bài thơ có kết cấu ba phần rất rõ ràng.

Nghệ thuật biểu hiện của bài thơ đậm đà bản sắc dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thơ có tám tiếng, có nhiều hình ảnh so sánh, phép chuyển nghĩa quen thuộc với tâm hồn người Việt, đồng thời những câu thơ ấy cũng đạt đến sự cô đúc, chính xác và giản dị như một chân lí:

Bác ơi, tim Bác mênh mông thế.
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.
Bác sống như trời đất của ta
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Bác đã lên đường theo tổ tiên...
II. Luyện tập

Câu 1. Phân tích 4 khổ thơ đầu để thấy được nghệ thuật diễn tả nỗi đau xót lớn lao trước sự kiện Bác Hồ qua đời.

1. Bác Hồ là một đề tài, nguồn cảm hứng lớn trong nhiều chặng đường sáng tác của Tố Hữu. “Bác ơi” là một tác phẩm xuất sắc viết về Bác Hồ trong tập thơ “Ra trận”.

Bài thơ được viết khi lãnh tụ của Đảng và dân tộc ta là Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa qua đời. Bài thơ là lời khóc Bác bằng thơ, bộc lộ nỗi đau xót, tiếc thương tràn đầy.

2. Nỗi đau xót: mở đầu bài thơ Tố Hữu tái hiện lại khung cảnh những ngày Bác mất:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...
Khung cảnh thực nhưng có ý nghĩa tượng trưng. Cả dân tộc đau xót khóc Bác, trời đất tạo vật cũng sụt sùi tiếc thương một con người – tinh hoa của dân tộc, tinh hoa của đất trời.

– Nỗi đau xót được diễn tả bằng hình ảnh biểu thị động tác có sức gợi tả tâm trạng: Chạy về thăm Bác, lần theo lối sỏi quen, đến bên thang gác, đứng nhìn lên...
– Nỗi đau xót được diễn tả bằn cách nói giảm: về thăm Bác, Bác đã đi rồi sao.
– Nỗi đau xót được diễn tả bằng hình ảnh thực tại trong cảm nhận của nhà thơ:
Ướt lạnh vườn rau mấy gốc dừa
Chuông ôi, chuông như còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
– Nỗi đau xót thể hiện bằng liên tưởng:
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm thấy Bác cười.
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai...
3- Tâm trạng đau đớn tới thảng thốt, không tin ở cái tin sét đánh phũ phàng kia. Dường như không còn Bác, cũng không nên tồn tại những gì là thơm ngọt, đẹp đẽ. Bác ra đi đồng nghĩa với lạnh, lặng, tắt... tâm trạng đau đớn đến tột cùng. Bác ra đi, trong khi đó ở ngoài kia đang là trời đầu thu, đang là chiến thắng và hi vọng. Khung cảnh và lòng người trở nên tương phản, đối lập, gợi bao nỗi day dứt về tính chất phi lí, không thể chấp nhận được của sự mất mát. Cuộc đời càng đẹp đẽ, hấp dẫn thì sự ra đi của Bác càng gợi bao đau xót, nhức nhối tâm can.

Câu 2. Hình tượng Bác Hồ được Tố Hữu tái hiện trong bài thơ (6 khổ thơ giữa).

1. Viết về Bác Hồ, với Tố Hữu là xây dựng hình tượng con người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu nhất, kết tinh phẩm chất dân tộc qua nhiều thời đại.

2. Hình tượng Bác Hồ:
– Con người có lí tưởng và lẽ sống cao cả: lí tưởng giải phóng dân tộc, lí tưởng độc lập tự do vì thế, lẽ sống của Bác là sống bằng tình thương, luôn lo cho dân nước:
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu,
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau...
Cách điệp ngữ dưới nhiều hình thức để chúng khắc sâu vào tâm khảm người đọc, người nghe. Lời điệp trong thơ Tố Hữu luôn xoáy vào các nốt nhạc chủ âm của tư tưởng và tâm hồn.

Hai câu trên nói về nỗi đau, nỗi đau được chia cho “nỗi đau dân nước”, nỗi “năm châu”. Hai câu sau nói về nỗi lo, nỗi lo cũng được chia ra, lo “hôm nay” và lo “mai sau”. Nỗi đau, nỗi lo vừa là biểu hiện của lẽ sống, vừa là biểu hiện của tình thương.

– Tình thương của Bác được diễn tả bằng hình ảnh thơ có chứa sức gợi lớn lao:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người
Tình thương ấy gắn liền với tình yêu, ân nghĩa như song sinh. Bác Hồ yêu nhân dân bằng thứ tình cảm trong trẻo như không khí, trời xanh, ân nghĩa như cơm ăn, áo mặc, ấm cúng như máu mủ ruột rà.
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Hình ảnh ví von trong thơ Tố Hữu rất tiêu biểu cho tư duy thơ của ông. Ví von không làm cho sự vật, con người cụ thể hơn mà là khái quát hơn, cao hơn, trừu tượng hơn và bóng bảy hơn.

– Niềm vui của Bác gắn với niềm vui của dân tộc với những chiến công để đi gần tới hoà bình, độc lập, tự do, gắn với niềm vui của thiên nhiên cây trái, cuộc sống tạo vật, con người.

– Bác Hồ sống khiêm tốn, giản dị và hi sinh quên mình.
Nâng niu tất cả chỉ quên mình
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Cách lập ý biểu cảm trong những hình ảnh thơ này là phép tương phản. Sự tương phản đều xoáy vào sự đối lập của các ý thức xã hội. Tương phản trong đoạn thơ không chỉ xây dựng trên sự liên tưởng của các hình ảnh đối lập mà còn mang hình thức tư duy, lập luận, rõ ràng. Yếu tố lôgíc nổi lên, nằm cùng dãy với yếu tố hình tượng làm câu thơ mang tính chất hùng biện mạnh mẽ.

+ Tương phản thứ nhất: Nâng niu tất cả/ chỉ quên mình là tương phản giữa số lượng tất cả/chỉ để thể hiện sự thống nhất trong tính cách, phẩm chất đạo đức của Bác: tình thương là cơ sở của lẽ sống, là thước đo phẩm giá, đạo đức con người.

+ Tương phản thứ hai: áo vải /hồn muôn trượng. Đó là tương phản về vật chất và tinh thần, biểu hiện của thanh và tục, cái cao cả và cái thấp hèn. Hình ảnh thơ trên đã biểu thị cái ưu thế tuyệt đối của tinh thần so với vật chất. Vật chất rất đơn sơ giản dị, tương phản với tâm hồn cao cả bất diệt, thể hiện một chất thơ vượt lên tồn tại vật chất, thể hiện sự khiêm tốn, giản dị trong vật chất, giá trị sống của con người Bác Hồ.

3. Tái hiện lại hình tượng Bác Hồ, Tố Hữu đã dựng lại chân dung tinh thần của Bác Hồ với quan niệm con người thiên nhiên, chân dung Bác chẳng những được tái hiện gắn bó làm một với cây cỏ, trời mây, sông núi Việt Nam, hơn thế Bác còn là hiện thân cho lẽ sống tự nhiên của trời đất Việt Nam: “Bác sống như trời đất của ta”. Tâm hồn Bác “mênh mông”, “ôm cả non sông mọi kiếp người”. Tình cảm của Bác là thứ tình cảm tự nhiên của cha mẹ với con cái, tình cảm gia đình. Bác “lo muôn mối như lòng mẹ”, “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà. Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”, “Bác vui như ánh buổi bình minh”...

Hình tượng Bác Hồ thật vĩ đại mà gần gũi với mỗi người dân Việt qua tiếng thơ Tố Hữu.

III. Tham khảo văn bản cảm thụ:
Phân tích khổ thơ thứ 10:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn
Chiều ngày 2/9/1969, khi nghe tin Bác mất, Tố Hữu đang điều trị ở bệnh viện, vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn của Bác lặng lẽ dưới mưa. Trở về, Tố Hữu viết “suốt cả đêm ấy cho vơi nỗi buồn”. Bác ơi được viết ngay sau sự kiện đau thương của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc, tiếng tiếc thương và là bản hùng ca, ca ngợi nhân cách, công lao, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bài thơ có mười ba khổ, đoạn phân tích là khổ thứ mười ca ngợi cuộc đời trong sáng, cao đẹp của Bác Hồ.

Bác Hồ không còn nữa. Dân tộc ta mất đi một người Cha già, cách mạng Việt Nam mất đi một vị lãnh tụ. Đau thương nào lớn hơn? Tố Hữu với cái buồn đau vô hạn ấy đã thể hiện lòng vô cùng yêu quý Bác bằng những vần thơ khóc thương và ca ngợi. Suốt cuộc đời Bác, Bác dành tất cả tình thương cho nhân dân quên mình vì lí tưởng độc lập dân tộc. Tố Hữu đã đúc kết vào trong suy nghĩ của mình bao điều ông từng chiêm nghiệm về Người.

Mở đầu khổ thơ: “Bác để tình thương cho chúng con”, đó là một ý thơ được lấy từ một ý trong Di chúc của Bác: “cuối đời tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn thể đồng bào”. Câu thơ ca ngợi tình nhân ái bao la của lãnh tụ Hồ Chí Minh với toàn thể nhân dân. Trái tim Người thật mênh mông, khiến cho Người không giây phút nào được thảnh thơi: lo dân, lo nước, thương nhân loại năm châu, thương mọi kiếp người nô lệ, thương Miền Nam còn trong tay giặc. Không phải chỉ thương suông mà thương đi liền với lo, lo cho tất cả lại lo riêng cho mỗi kiếp người cụ thể: “Sữa để em thơ, lụa tặng già”. Tình thương của Bác bao trùm cả không gian, thời gian “cho hôm nay và cho mai sau”, bao trùm cả thiên nhiên cây cỏ, chia sẻ đến “từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa”. Suốt đời Bác thương nước, thương đời trong lúc thức và trong cả những cơn mơ. Nói về tình thương của Bác, Tố Hữu nói bằng giọng thơ thật giản dị và với cách xưng hô: “Bác”, “chúng con” đã thể hiện sự thân mật, gắn bó giữa nhân dân và lãnh tụ.

Sinh thời, tâm tư tình cảm của Người chỉ biết dành cho tất cả, lo cho tất cả, mà không nghĩ đến bản thân mình. Lúc ra đi vẫn bộ quần áo ka ki giản dị, không một tấm huy chương, huân chương trên ngực. Đúng là “một đời thanh bạch chẳng vàng son”. Câu thơ ca ngợi lối sống thanh bạch, nhân cách trong sáng của Bác. Tác giả dùng chữ “thanh bạch” đối lập với chữ “vàng son” đặt trong câu thơ nhằm đối lập giữa cuộc sống thật của Bác (người đứng đầu Đảng và Nhà nước XHCN) với cuộc sống xa hoa của một số bậc vua chúa phong kiến trước đây. Bác sống một cuộc sống thanh bạch, giản dị, từ chối mọi hư danh.

Đứng trước cái chết, ai cũng vậy dường như đều muốn trở thành nhà triết học. Những lúc ấy trong đầu óc thường nảy ra những ý nghĩ có tính chất tổng kết về một đời người, một kiếp người. Ta hiểu vì sao trong bài “Bác ơi” có thể tìm thấy những ý nghĩ khái quát sâu sắc của Tố Hữu về bản chất con người Bác. Và câu thơ trên là một chiêm nghiệm về Bác của Tố Hữu.

Tiếp theo câu “mong manh áo vải hồn muôn trượng” là câu thơ ca ngợi về lối sống giản dị khiêm nhường của Bác, đồng thời cũng đề cao sự vĩ đại cao đẹp trong tâm hồn Người. Ở Bác luôn có sự thống nhất, hài hoà giữa hai phẩm chất: bình thường mà vĩ đại, dung dị mà thiêng liêng. Để diễn tả điều đó, Tố Hữu đã dùng hai hình ảnh rất đạt: “áo vải” và “hồn muôn trượng” để diễn tả sự khẳng định. Một con người luôn khiêm nhường mà luôn vĩ đại cao cả, từ lời nói đến hành động. Bác nói “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” và đã lo cái lo của nhân dân, cũng từng nhịn bữa góp gạo kháng chiến. Trước khi Người vội đi xa, Người còn muốn nghe những làn điệu dân ca mọi miền, trong đó có dân ca miền Trung – cái nôi làng Sen quê hương Bác mãi là tinh hoa văn hoá của dân tộc.

“Hơn tượng đồng phơi những lối mòn” bằng nghệ thuật so sánh, tác giả khẳng định sự bất hủ của các giá trị tinh thần mà Bác để lại cho dân tộc. Ở đây có hình ảnh “tượng đồng phơi những lối mòn”, những bức tượng đồng nhằm lưu danh các vĩ nhân đặt tại các vườn hoa, khu kỉ niệm, nơi thường có nhiều người qua lại, chiêm ngưỡng. Bác Hồ của chúng ta như ẩn mình đi, rất khiêm nhường nhưng vẫn hơn “tượng đồng phơi những lối mòn”. Lời tổng kết về một nhân vật vĩ đại như Bác Hồ không thể không bao hàm sự liên tưởng so sánh với những tên tuổi khác. Tác giả muốn đúc tượng đồng bia đá để trở thành bất tử. Sinh thời, Bác không thích tượng đồng bia đá, không nhận bất cứ huân huy chương nào. Nhưng “mong manh áo vải hồn muôn trượng”, Người sẽ sống mãi trong lòng dân tộc, hơn những ai đó tượng đồng bia đá đúc mà không người viếng thăm để chúng phải “phơi” mặt bên “những lối mòn” vắng vẻ.

Tác giả đã thay mặt chúng ta dựng tượng đá Bác bằng thơ trong lòng mỗi người dân nước Việt. Chúng ta hứa nguyện xứng đáng với Bác, quyết tâm làm theo Di chúc của Bác, tiến bước theo con đường của Người.

264.12
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phân tích nỗi đau xót tiếc thương Bác trong bài thơ Bác ơi

Nỗi đau xót, tiếc thương vô hạn của tác giả và mọi người khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời trong phần đầu của bài thơ Bác ơi! (Tố Hữu)?

Bài làm

Nỗi đau xót, tiếc thương vô hạn của tác giả và mọi người khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời đã được diễn tả hết sức chân thực, cảm động trong bốn khổ thơ đầu tiên:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa!
Những câu thơ đầu tiên là lời xót thương, tiếc nuối được bộc lộ trực tiếp, giống như tiếng nức nở tuôn trào trước sự ra đi của Bác. Tác giả đặt hai vế: “đời tuôn nước mắt” và “trời tuôn mưa” trong cùng một câu thơ đã làm nổi bật nỗi đau đớn của lòng người. Lấy mưa của đất trời, lấy nước của thiên nhiên để sánh đôi với nước mắt, nỗi đau của con người, câu thơ đã khái quát được những cảm xúc tiếc thương của con người và cuộc đời trước sự mất mát lớn lao này. Cách xưng hô “con – Bác” tạo nên một sự thân thương, gần gũi, càng làm câu thơ thêm lắng sâu, nghẹn ngào.
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bèn thang gác, đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Con người như không tin vào nỗi mất mát, sự xót đau này, lần theo những kí ức, kỉ vật, không gian quen thuộc để như hồi tưởng, để như kiếm tìm bóng dáng thân quen ấy. Cảnh sắc, đồ vật, không gian vẫn còn đây, nhưng đã không còn sự hiện hữu của Người. Bởi thế mà “lối sỏi quen, thang gác, chuông nhỏ, phòng, rèm, đèn” đều như trống rỗng, lặng câm, vô hồn. Những câu thơ không chỉ dừng nên những cảnh sắc, không gian, đồ vật quen thuộc của Người mà còn diễn tả được sự im lặng, nỗi trống trải của không gian, cảnh sắc ấy khi Bác ra đi.
Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười
Con người khó có thể tin và chấp nhận sự thật này, nỗi mất mát này, nên lần theo sỏi quen, đến bên thang gác,... mà vẫn thảng thốt cất lên tiếng hỏi. Câu hỏi đưa ra mà không có câu trả lời, giống như một lời nghẹn đắng, một nỗi nức nở trào dâng trong xúc cảm của người nghệ sĩ: “Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!” Những câu thơ tiếp theo mở ra một không gian tươi sáng của mùa thu, sự náo nức chiến thắng của miền Nam và ước vọng được “rước Bác vào thăm, thấy Bác cười” càng nhấn mạnh, khẳng định sự mất mát, nhói đau khi không còn Bác.
Trái bưởi kia vàng ngọt với cà
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay...
Tố Hữu gợi nhắc đến trái bưởi, đến hoa nhài, là những thứ cỏ cây, hoa trái gần gũi bên Bác trong những câu hỏi tu từ đầy xót xa. Sự vàng ngọt của trái bưởi, hương thơm, của hoa nhài, dường như đã trở thành vô nghĩa khi Bác ra đi. “Còn đâu” là một sự kiếm tìm đầy tiếc nuối hình ảnh đẹp đẽ, thân quen: “bóng Bác đi hôm sớm. Quanh mặt hồ in mây trắng bay”. Hình ảnh càng rõ nét, các sự vật càng thân thuộc thì nỗi xót xa, mất mát càng được đẩy cao. Những câu thơ là tiếng lòng nức nở, dâng trào, nỗi đau xót, ngẩn ngơ, tiếc nuối của Tố Hữu trước sự ra đi của Bác.


(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)
173.59
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Soạn bài Bác ơi

Bố cục bài thơ:
- 4 khổ thơ đầu: Nỗi đau thương lớn lao, đột ngột trước sự qua đời của Bác.
- 4 khổ thơ đầu: Nỗi đau thương lớn lao, đột ngột trước sự qua đời của Bác.
- 3 khổ cuối: Nỗi tiếc thương, niềm tin và ước nguyện đi theo con đường của Bác.

Câu 1: Nỗi đau xót lớn lao trước sự kiện Bác Hồ qua đời được diễn tả qua bốn khổ thơ đầu:
- Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa: không gian hoà điệu với tâm trạng con người.
- Con lại lần theo lối sỏi quen: đau đớn, bàng hoàng đến thẩn thờ, ngơ ngác.
- 4 khổ thơ đầu: Nỗi đau thương lớn lao, đột ngột trước sự qua đời của Bác.
- 3 khổ cuối: Nỗi tiếc thương, niềm tin và ước nguyện đi theo con đường của Bác.
--> Mọi vật xung quanh trở nên hoang vắng lạnh lẽo, ngơ ngác hệt như lấy mất linh hồn.
- Bác đã đi rồi sao Bác ơi?: Tang tóc quá lớn gần như không thật, không thể tin được.
- Nỗi đau lớn được thể hiện qua tiếng khóc trực tiếp của tác giả: những câu hỏi tu từ, câu cảm thán liên tiếp dùng để khóc thương, bày tỏ niềm thương xót của nhà thơ, cũng là nỗi đau của triệu người…

Câu 2: Hình tượng Bác Hồ được thể hiện nhiều khía cạnh, phương diện:
a. Về lí tưởng và lẽ sống.
Suốt cả cuộc đời không lúc nào bác thảnh thơi vì “nỗi thường đời”. Đó là lí tưởng sống cao đẹp, là lẽ sống quên mình vì mọi người của bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”. Bác hi sinh cả hạnh phúc cá nhân để lo cho cả dân tộc, lo cho mỗi sinh linh bé nhỏ được tự do hạnh phúc, yên vui.

b. Niềm vui và tình thương của Người được thể hiện ở nhiều cung bậc, góc độ:
- Bác đau: dân nước, năm châu; lo: muôn mối; yêu: ngọn lúa, cành hoa; nhớ: miền Nam; vui: mỗi mầm non trái chín, tiếng ca chung...
- Bác nghe từng bước ra tiền tuyến: lắng mỗi tin mừng...

Tất cả những động từ biểu thị tâm trạng trong các khổ thơ đã tác lên động lên chân dung của Bác. Người dành cả trái tim, tấm lòng trí óc, bầu nhiệt huyết cho nhân dân. Tất cả điều mà người quan tâm tới không có gì dành cho cá nhân, cho riêng bản thân Người mà đều vì dân tộc, Tổ quốc. Thế mới thấy hết được trái tim của người Cha, người Mẹ, người Bác, người Anh trong trái tim vĩ đại Hồ Chí Minh.

c. Di sản Người để lại.
- Bác để tình thương cho chúng con
- Một đời thanh bạch, áo vải hồn muôn trượng...

Những gì mà người để lại cho dân tộc đã vượt lên trên giá trị vật chất tầm thường, món quà vô giá Người để lại là di sản tinh thần, đó là tình yêu thương, là một trái tim chỉ biết quên mình; đó là một cuộc đời đơn giản thanh bạch, cao quý. Chính sự giản dị, thanh bạch trong lối sống đã tạo nên một hình ảnh Hồ Chí Minh vĩ đại, khắc sâu trong mỗi trái tim Việt Nam hơn mọi bức tượng đồng được xây dựng công phu. Lời thơ là lời ngợi ca sự tồn tại vĩnh hằng của một cuộc đời rất đỗi giản dị, thanh cao đã hi sinh cho giống nòi, dân tộc này.

Câu 3: Cảm nghĩ của mọi người dân Việt Nam qua ba khổ thơ cuối như thế nào?
- Lời thơ không chỉ dừng lại là lời của một cá nhân mà là tiếng lòng cảm xúc của cả dân tộc Việt Nam.

Tác giả khẳng định nỗi nhớ Bác Hồ thường trực trong trái tim hàng triệu người con Việt Nam, nỗi nhớ ấy đã nghìn thu, muôn thuở như cuộc đời Bác, sự nghiệp của Bác, nhưng lời thơ không bi luỵ. Vì tác giả đã khẳng định về sự bất diệt và sức sống vĩnh hằng của trái tim Hồ Chí Minh. Sự ra đi của Bác cũng chỉ là cuộc hành trình về với tổ tiên.

Bác đã lên đường theo tổ tiên
Mác, Lê-nin thế giới người hiền
Đó cũng chính là động lực thúc đẩy cả dân tộc tiếp tục con đường mà Bác đã lựa chọn và theo đuổi.

- Lời thơ là lời biết ơn sâu nặng công lao của Hồ Chí Minh, đồng thời trước cái chết của Người, nhiều đứa con của Người đã tìm thấy được thanh lọc tâm hồn, được trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn. Đó là sức mạnh tinh thần mà Bác đã tạo ra, nhân cách của cuộc đời Bác đã là một tấm gương sáng mà mỗi người có thể tự soi chiếu để mình được trong sáng hơn.

- Cuối bài thơ là lời hứa, lời nguyện ước của cả dân tộc trước Bác.
+ Không dám khóc nhiều...
+ Chúng con cùng nhau tiến lên...
+ Nguyện cùng Người vươn tới mãi...

Lời thơ là lời thề hứa, bởi vậy giọng điệu câu thơ khoẻ khoắn, rắn rỏi. Lời thề hứa cùng là lời đáp lại những mong mỏi của Người, đáp lại những lời băn khoăn trăn trở mà Người đang thực hiện dang dở. Bởi vậy có thể thấy tình cảm thiết tha sâu nặng ân tình mà hàng triệu trái tim Việt Nam cùng dâng lên Người. Tinh thần nhân văn của bài thơ cũng chính là ở đó.

173.76
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Cảm nhận về bài thơ “Bác ơi!”

Ngày 2-9-1969, Hồ Chủ Tịch tạ thế. Cả một rừng thơ khóc Bác xuất hiện, trong đó nổi bật lên cây đại thụ Tố Hữu với bài thơ Bác ơi!

Bốn khổ thơ đầu nói cái đau xót tột cùng của thi sĩ trước sự kiện Bác ra đi:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa.
Trời mưa tầm tã cộng với nước mắt hàng triệu người khóc vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã làm cho cả không gian ướt lạnh, đau buồn.

Khi Bác đi xa, Tố Hữu đang nằm điều trị ở bệnh viện. Nghe tin, nhà thơ hoảng hốt chạy về phủ Chủ tịch, nơi nhà sàn của Người:
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Từ “chạy” được dùng rất tài, nói lên sự nóng gan nóng ruột của người con khi nghe tin cha mất.
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Ta thấy tác giả rất ý tứ cho nên “đến bên thang gác đứng nhìn lên” mà chưa vào nhà vội. Vì sao vậy? Vì đến thăm một người tạ thế là thăm vợ goá, con côi. Còn Bác không có gia đình thì xử lí như Tố Hữu là rất tinh tế. Nhà Bác hôm nay đã khác xưa rồi: Chuông không còn reo để báo tin với Người có khách đến. Đặc biệt câu thơ: “Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn”, bị cắt ra làm ba nhịp như muốn diễn tả nỗi nghẹn ngào của Tố Hữu.

Nhìn vườn cây Bác từng vun trồng, tác giả bâng khuâng:
Trái bưởi kia vàng, ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài!
Hai câu này làm cho một số độc giả thắc mắc: Chẳng lẽ Bác trồng cây chỉ cho một mình Bác thôi ư? Tôi đã có dịp hỏi nhà thơ Xuân Diệu; thi sĩ bảo: Ai lại đi thẩm định văn chương như vậy! Đây chỉ là một cách nói của thi ca để biểu lộ tình thương sâu sắc của con đối với Cha mà thôi. Cha chết không thương Cha hay sao?
Nhìn ao cá, nhà thơ bỗng tiếc nuối:
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay...
Bác hiện lên trong kí ức đẹp như một ông Tiên trong thần thoại. Đúng! Trong tâm trí nhà thơ cũng như trong tâm trí dân tộc ta, Bác là một “Ông tiên Mác–xít”.

Sau những ngày bàng hoàng đau xót, nhà thơ bình tâm lại, khắc hoạ hình tượng Bác. Tố Hữu đã viết nhiều bài thơ về Bác nhưng bài này hay hơn cả vì đây là thơ tổng kết một cuộc đời.

Hình ảnh bao trùm là: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế”. Đó là một trái tim giàu tình thương: “Ôm cả non sông, mọi kiếp người”.

Một trái tim thương nước, thương dân bao la, mênh mông. Từ “ôm” được dùng rất gợi cảm: ôm là nâng niu, che chở, giữ gìn.
Thương bao nhiêu thì đau bấy nhiêu:
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Từ “đau” là lấy lại chữ dùng của Bác trong di chúc. Đau dân nước vì dân nước đang bị đế quốc xâm lược; đau năm châu vì có sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế. Chỉ con người vĩ đại mới có nỗi đau đớn lớn lao như thế.

Có một câu thơ tuyệt hay nói về cuộc đời của lãnh tụ:
Bác sống như trời đất của ta
Câu thơ giản dị mà hàm chứa một nội dung sâu sắc: Cuộc đời Bác đã hoà làm một với thiên nhiên, sẽ vĩnh hằng như thiên nhiên. Đó là nguồn gốc tinh thần lạc quan của Người:
Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hoà bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình
Vì sao vậy? Vì giải phóng miền Nam là trung tâm của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Nhiều người gặp Bác đều kể lại mỗi khi trò chuyện, thế nào Người cũng nhắc đến miền Nam. Trong phòng của Bác có treo bản đồ miền Nam về sự bố trí binh lực của địch. Có lần phát biểu trước Quốc hội, Người nói: “Miền Nam luôn trong trái tim tôi”.

Đạo đức của Bác thật cao khiết:
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Bác là vị lãnh tụ kiểu mới; khác với những người ưa sùng bái cá nhân. Vì tâm hồn Bác giàu quá (hồn muôn trượng) nên bề ngoài Bác rất giản dị (mong manh áo vải). Bác không cần tượng đồng vì nhân dân đã đúc cho Người hàng triệu tượng trong tim.

Trong ba khổ cuối, nhà thơ nói lên cảm nghĩ của nhân dân ta trước sự ra đi của Bác.

Trước hết là nhớ lời Di chúc:
Ra đi Bác dặn: “Còn non nước...”
Nghĩa nặng lòng không dám khóc nhiều
Câu thơ nhắc lại lời Người:
Còn non còn nước còn người
Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay.
Vậy thì thương Bác tức là phải làm theo lời Bác dặn, tập trung sức để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Bác Hồ nay đã nhập vào một thế giới đặc biệt:
Mác-Lê nin thế giới Người Hiền
Hiền ở đây là hiền minh, hiền triết - tức là những vĩ nhân có trí tuệ siêu việt có đạo đức cao cả. Chính những con người đó đã dẫn dắt lịch sử tiến lên không ngừng.

Kết thúc thi phẩm này, Tố Hữu có một câu thơ rất hay:
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn.
Yêu Bác làm theo tấm gương trong suốt như pha lê của Người; sẽ có sức mạnh tẩy sạch những vết mờ đục trong lòng ta, nâng chúng ta lên tầm cao mới.

Chúng ta quyết biến đau thương thành sức mạnh:
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.
Bài thơ Bác ơi! là một điếu văn bi hùng. Lối thơ thất ngôn tạo nên một nhạc điệu trang trọng, cùng với hình ảnh thơ kì vĩ đã diễn đạt rất tài tình những cảm xúc cao đẹp của toàn thể dân tộc ta trong những ngày quốc tang năm 1969.

274.30
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bác Hồ kính yêu!

Bác Hồ luôn trong trái tim tôi

-HĐG-
223.86
Trả lời
Ảnh đại diện

Hiện bài thơ bác ơi

bài rất có ý nghĩa.Bác luôn sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.

LVC pro,
204.10
Trả lời
Ảnh đại diện

Comment

Nếu có phân tích thì hay hơn ! nhưng bài thơ cũng là xúc động lắm rồi

153.00
Trả lời
Ảnh đại diện

bác ơi

miền trung nhớ bác
mong ngày ra bắc thăm người
non sông lại cười. Bác ơi!
ước gì người còn bên cúng con
nhưng người đi mãi vào giấc tròn
nghìn thu nhớ bác dáng từ tốn
mộc mạc đơn sơ "chẳng vàng son"

284.04
Trả lời
Ảnh đại diện

buồn. .

Chỉ buồn là niềm tin của Bác bây giờ đã bị một bộ phận làm phai nhạt, bao giờ thì ước nguyện của Bác mới đạt được? Nhớ Bác quá, nhớ những con người của ngày xưa quá. .

233.91
Trả lời