Đăng bởi Vanachi vào 13/03/2005 18:37, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi karizebato vào 25/11/2009 21:13
Nước non nặng một nhời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ nhời “nguyện nước thề non”,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Giời tây chiếu bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non!
Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước, hãy còn thề xưa.
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi nhời thề.
Trang trong tổng số 1 trang (10 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi !!!_bog' bien~ ngày 23/10/2009 00:10
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) và Tú Xương (1870 -1907) về cơ bản là những thi sĩ của thế kỷ 19, bởi họ sống rất ít với thế kỷ 20 - người chín năm, người có bảy năm. Tản Đà thì khác, chào thế kỷ 20 lúc mới lên mười một tuổi, ông còn cả cuộc đời khá dài phía trước, với ba mươi chín năm lăn lóc với thế kỷ nhọc nhằn này. Không chỉ sống cùng, ông còn chết sau cả một nhà Thơ Mới trẻ trung như Nguyễn Nhược Pháp nữa kia. Ấy thế nhưng ông vẫn là cái cây mọc lên từ thế kỷ trước, uống đòng sữa của hai ngàn năm Nho học và lấy thế kỷ 19 làm quê hương, bởi “quê hương đồng nghĩa với tuổi thơ” theo cách nghĩ của tôi. Phong thái sống của ông dẫu có bị thời thế mới làm cho chao đảo ít nhiều nhưng vẫn còn nguyên cốt cách của ngày xưa. Và thơ ông vốn trung thực với hồn ông nên nó cũng mang cốt cách như vậy. Đó là một con người dẫu ngoài cửa miệng có nói gì thì nói, trong đáy lòng vẫn nguyên vẹn một niềm tin vào những giá trị cao quý bất di bất dịch của phẩm giá con người, cái niềm tin khiến ta còn nhớ mình là ai và không chịu để tuyệt vọng biến mình thành giẻ rách. Điều đó giữ cho tâm thế của lớp người này mang sẵn một niềm lạc quan từ trong gốc rễ. Bài thơ mà ta đang nói tới ở đây - bài Thề non nước - thấm đẫm tinh thần đó.
Bài thơ là sự cụ thể hoá câu thành ngữ cổ điển: “Thệ hải minh sơn” (thề non hẹn biển). Đó có lẽ là câu tiêu biểu nhất có sức khái quát cho mọi sự thề thốt ở trên đời, tuy nhiên nó có nghiêng hơn về phía của những lời thề thốt trong mối quan hệ riêng tư giữa hai con người. Điều khác nhau cơ bản giữa bài thơ và câu thành ngữ là ở chỗ: Nếu như trong câu của người xưa, non và biển được dùng với tư cách độc lập, đơn giản là được mượn từ phẩm chất bền vững và to lớn để gửi gắm những phẩm chất tương tự của hồn người - một lối ví von tất thông dụng, thì trong thơ của Tản Đà, “biển” đã được thay bằng “nước” - hai hình ảnh “non” và “nước” không còn đơn giản là đối tượng để so sánh trong thế bất động, mà quan trọng hơn nhiều là mối tương quan khăng khít keo sơn giữa chúng. Câu trên là con người mượn non và biển để thề, còn ở đây là non và nước thề với nhau. Cả bài thơ do vậy được xây dựng trên một cái tứ chung: “nước đi ra bể lại mưa về nguồn” - vòng lưu chuyển của nước từ ruột đất chảy thành sông suối, tuôn ra biển, rồi biển lại bốc hơi thành mây, mây hoá thành mưa, mưa lại rơi xuống đất... Đó là quy luật của trời đất. Đem quy luật của Hoá công mà vận vào chuyện đời và hồn người theo cái phía tích cực như vậy là chứng tỏ cái cốt cách ngày xưa như ta đã nói ở trên nơi nhà thi sĩ này còn vững chãi biết chừng nào. Bởi ngay từ xưa kia, trong tâm thế con người, cõi Vô thường của Tạo hoá hầu như chỉ được cảm nhận từ phía tiêu cực, phía ảm đạm mà thôi. Đọc những câu:
Non cao đã biết hay chưaTa nhận ra trong đó một ý thức chủ động, một sự cố gắng để vui. Và quả thật vì thế nó không giấu nổi một cảm giác ngậm ngùi, tội nghiệp.
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui...
Non cao những ngóng cùng trông.Điều đảm bảo cho ẩn dụ thành công là tính chính xác mà lại có sức gợi mở của các mối liên tưởng. Nếu hình dung ngọn núi như một con người thì nói con suối như dòng lệ của con người ấy đang lúc nhớ nhung thì không còn gì đúng chỗ hơn. Câu thơ thứ hai còn một dị bản: “Suối tuôn dòng lệ...” có một giai thoại nói rằng có một người vô danh đã sửa lại như trên, nhưng tôi tin người đó không phải ai khác là chính tác giả. Mỗi từ có một sức biểu cảm riêng và đều chính xác, nhưng từ “khô” có phần da diết hơn và rất phù hợp với văn cảnh tiếp theo:
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầyCùng với câu trên kia, đây chắc chắn là những câu thơ đẹp nhất không chỉ của bài thơ mà còn là của cả nền thơ Việt ở thế kỷ này. Đẹp đến nỗi những ai có ảo tưởng mong tìm những lời khác để biểu đạt chính vẻ đẹp này thì đều bất lực, và không có cách gì khác hơn là phải mượn lại chính lời thơ. Từng từ một ở đây đều chở một dung lượng biểu cảm vừa chính xác trong tư duy cụ thể vừa mênh mông trong chân trời tưởng tượng nên có sức ám ảnh khôn cùng. Vẻ khô héo, tàn tạ, thê lương vừa rất “núi” vừa rất “người “ở đây đã đạt đến chuẩn mực của cái đẹp thẩm mĩ, với những từ “xương mai”, “hao gầy”, “tóc mây”, “tuyết sương”, “tà dương”, “phơi”, “vẻ ngọc”, “nét vàng”, “phôi pha”... Nếu như bài thơ chỉ có phần đầu này thôi thì rất có thể đặt cho nó một cái tiêu đề như “Phôi pha” chẳng hạn, cũng tựa như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sau này đã tận dụng tài tình cả ca từ và giai điệu để diễn đạt cảnh trí và tâm thế rất khó diễn đạt này trong một ca khúc tuyệt vời cũng có tên là “Phôi pha”
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Gửi bởi qami11 ngày 08/04/2010 06:26
Nhớ nhời nguyện nước thề non
Hình như là: "Nhớ lời nguyện nước thề non" mới đúng mà bạn
Gửi bởi DƯƠNG VƯƠNG ngày 15/04/2010 23:59
Trong nền văn học Việt Nam, có một thi nhân đặc biệt chiếm một vị trí cũng đặc biệt trên thi đàn. Đó là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Đặc biệt bởi tài sử dụng ngôn ngữ của ông mà có người đã khâm phục ca ngợi tiên sinh như một nhà ảo thuật ngôn ngữ. Đặc biệt bởi vì ông là “chiếc gạch nối giữa thơ cũ và thơ mới” (Hoài Thanh). Sinh thời, ông viết nhiều tác phẩm hay, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là bài thơ Thề non nước.
Bài thơ có gì đặc biệt mà lại cùng với tác giả rạng danh trên thi đàn Việt Nam đến như vậy?
Ta hãy xem:
Nước non nặng một lời thề,Hình ảnh một cuộc chia li hiện ra buồn bã qua một câu thơ như một lời thở dài nặng trĩu. “Nước non” gợi lên hình ảnh về một bức tranh sơn thuỷ, có núi sông. “Nước non” ở câu trên đi cạnh nhau như một đôi bạn quấn quýt, và trọng tâm cả câu đặt vào chữ “nặng” càng làm rõ cái sắt đá của lời thề. Tưởng chừng như không gì chia cách được nước - non. ấy thế mà:
Nước đi, đi mãi không về cùng non.
Nước đi, đi mãi không về cùng non.“Nước, non” bị tách ra hai đầu câu thơ, như cùng tồn tại ở hai cực, tách biệt và xa cách làm sao. Nước đi như một tất yếu khách quan của quy luật vận động. Còn non đứng lại, chỉ biết chờ mong. Từ “đi” được láy và được ngăn cách, tạo cảm giác về một sự day dứt khắc khoải khôn nguôi. Non khắc khoải điều gì?
Nhớ lời nguyện nước thề nonLời “nguyện nước thề non” thiết tha là thế, sâu nặng là thế, ấy mà non - nước vẫn cách chia. Một lần nữa, non - nước lại đứng ở hai vế câu đối lập:
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,Hình ảnh của non hiện ra ở đây cụ thể hơn, như một người con gái. Những “dòng lệ, xương mai, tóc mây, vẻ ngọc nét vàng” đầy ước lệ chẳng đã nói lên điều đó sao? Người con gái đẹp nhưng buồn. Một lần nữa cái phong vị chia li lại thấm đều lên từng câu chữ, lại khắc đậm thêm trong ta một nỗi u tình sâu kín. Nhạc thơ hầu hết là thanh bằng, tạo âm điệu trầm buồn da diết. Tứ thơ chất chứa nỗi cô đơn:
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời tây ngả bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Xương mai một nắm hao gầy,Cái gì cũng chỉ có một! Một mái tóc mây, một dáng vẻ hao gầy, một mình non đứng cô đơn. Thế nhưng nỗi sầu thì cứ đầy vơi, nỗi buồn như trào ra từng lời nói. Câu thơ ẩn chứa một sự đối lập xót xa.
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Non cao tuổi vẫn chưa già,Nếu như ở đoạn thơ trên, sự ra đi của “nước” là một quy luật tự nhiên thì ở đoạn này, viễn cảnh về sự trở lại của “nước” cũng tuân theo một quy luật tự nhiên bất di bất dịch. Có thể nói đoạn thơ này là lời an ủi thiết tha, chân thành của “nước” dành cho “non”:
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước hãy còn thề xưa.
Non cao đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Dù cho sông cạn đá mòn.Lời thề vàng đá ngày nào vẫn còn đó, sâu nặng trong mỗi người. Cho nên đáp lại sự chung thuỷ đợi chờ của non là lòng sắt son của nước:
Còn non, còn nước hãy còn thề xưa.
Non cao đã biết hay chưa?Cặp từ “non - nước” được liên tiếp lặp lại ở những vị trí khác nhau ngày càng gần lại, ban đầu còn cách biệt câu trên câu dưới, còn sóng đôi nhưng chưa gặp gỡ thì sau đã đi liền nhau như tái hợp, sum vầy. Ta thấy từ trong mỗi câu thơ loé lên những tia hi vọng tươi sáng, hợp thành một niềm tin chắc chắn vào một ngày sum họp gần kề. Tản Đà đã rất hữu ý khi sắp xếp từng câu chữ.
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.Như một người trai đạt thành sự nghiệp, quy cố hương với tấm lòng thanh thản tươi vui.
Nước kia dù hãy còn đi,Màu xanh tươi tắn và dạt dào sức sống của ngàn dâu tượng trưng cho một khởi đầu tốt đẹp sau những thay đổi tang thương. Từng lời, từng chữ cứ quyện vào nhau, đan kết lại trong một nỗi hân hoan dào dạt. Ta như thấy được nết mặt vui mừng của người chinh phụ khi đón chồng về, như cảm nhận được niềm vui ngân lên trong những thanh âm trong trẻo của hai câu thơ cuối.
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi lời thề.
Gửi bởi Cố đô miền Đất sét ngày 03/10/2010 05:00
Tản Đà (1889-1939) có câu thơ tuyệt bút:
Tài cao, phận thấp, chí khí uất,Người đọc xưa nay vẫn tìm thấy bóng dáng Tản Đà qua vần thơ ấy. Tên là Nguyễn Khắc Hiếu, lấy núi Tản, sông Đà làm bút danh. Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Khối tình con, Thề non nước là những tác phẩm nổi tiếng của Tản Đà. Chất tài hoa tài tử, lãng mạn, giang hồ... in đậm trong thơ, văn Tản Đà. Những năm hai mươi của thế kỉ XX, Tản Đà là thi bá trên thi đàn Việt Nam. Ông được nhà văn Hoài Thanh trân trọng ngợi ca là “Người của hai thế kỉ”, vì thơ văn của Tản Đà chính là gạch nối giữa hai nền văn học của dân tộc: cổ điển và hiện đại.
Giang hồ mê chơi quên quê hương.
(Thăm mả cũ bên đường)
Trời tây ngả bóng tà dương,Có thể nói, đó là một bức tranh cổ rất đẹp mà buồn, thấm đượm cái tình thương nhớ, tang thương.
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.
Non cao những ngóng cùng trông,Càng tương tư càng tủi hờn: “Non còn nhớ nước, nước mà quên non”. Nhưng nàng cô phụ vẫn đinh ninh lời thề:
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời tây ngả bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.
Dù cho sông cạn đá mòn“Dù... hãy...” niềm tin được khẳng định. “Sông cạn đá mòn” là một thành ngữ, nêu lên một giả định không bao giờ có thể xảy ra. Và cho dù có xảy ra trong muôn một, thì giai nhân vẫn son sắt thuỷ chung “hãy còn thề xưa”. Ba chữ “còn” được láy lại trong vần thơ đã thể hiện sâu sắc, cảm động mối tinh son sắt, thuỷ chung, bền đẹp của nàng cô phụ.
Còn non còn nước hãy còn thể xưa.
Non cao đã biết hay chưa?“Ngàn dâu xanh tốt” như một chứng tích của thời gian, như một nỗi tang thương đã biến đổi, và còn lại như một kỉ vật, vì thế “non thì cứ vui”.
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nghìn năm giao ước kết đôi,Đã có lời “thệ hải minh sơn” trong tình sử. Đã có “đám cưới bạc”. Cũng có “đám cưới vàng”... Đời người hữu hạn trăm năm. Nhưng lời thề của “non” và “nước” là lời thề “nghìn năm” kết đôi, thuỷ chung bền vững. Đó là một lời thề sâu nặng, bền đẹp đến muôn đời.
Non non nước nước, không nguôi lời thề.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
(Cuốc kêu cảm hứng - Nguyễn Khuyến)
...Nặng gánh em trở ra về!
Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya...
Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai!
...
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng
Nước non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay!
(Gánh nước đêm - Trần Tuấn Khải)
Nọ bức dư đồ thử đứng coiTrong bài thơ Thề non nước, hai chữ “non” và “nước” xuất hiện ở tần số rất cao: 27 lần, lúc thì nước nhớ non, lúc thì non nhắn nước, lúc thì non non nước nước... Một giọng thơ thiết tha, có không ít câu thơ để lại nhiều ám ảnh:
Sông sông núi núi khéo bia cười
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi...
(Vịnh bức địa đồ rách - Tản Đà)
Nước đi đi mãi, không về cùng non...
Nước đi chưa lại, non còn đứng không,
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày...
Non còn nhớ nước, nước mà quên non...Có đặt bài thơ Thề non nước bên cạnh các bài thơ Chim hoạ mi trong lồng, Vịnh bức địa đồ rách, v.v... ta mới thấy tình yêu nước được nhà thơ kín đáo gửi gắm vào các chữ “nhớ nước”, “quên non”. Tình yêu nước dào dạt cả bài thơ. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, trên thi đàn công khai, Tản Đà đã có một cách nói thật hay, thật xúc động về tấm lòng gắn bó thiết tha với giang sơn Tổ quốc. Trong thời Pháp thuộc, bài thơ Thề non nước như một vạch nối dẫn dắt người đọc, nhất là thế hệ thanh niên cảm nhận sâu hơn những vần thơ của Phan Bội Châu, của Phạm Tất Đắc, v.v...
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau.
(Hải ngoại huyết thư - Phan Bội Châu)
Nghĩ thân thế héo hon tấc dạTóm lại, Thề non nước là một bài thơ kiệt tác của thi sĩ Tản Đà. Sắc điệu trữ tình dào dạt trong những vẫn thơ nói về sự thương nhớ, chờ mong. Chờ người yêu nặng lời thề, xa vắng. Nhớ hồn nước bơ vơ. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hoá, điệp từ điệp ngữ, biện pháp phân - hợp v.v... đã tạo nên những câu thơ lục bát tuyệt hay, đọc qua một lần nhớ mãi.
Trông non sông lã chã dòng châu...
(Chiêu hồn nước - Phạm Tất Đắc)
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi lời thề.
Gửi bởi biddy9x ngày 07/10/2010 11:31
+ Suối "khô" dòng lệ chờ mong tháng ngày => Suối "tuôn" dòng lệ chờ mong tháng ngày.
+ "Trời" tây "chiếu" bóng tà dương
+ Non "xanh" đã biết hay chưa?
Nguồn: " Thi nhân Việt Nam " NXB VH Sài Gòn, 2008
Gửi bởi 天神情爱love1989 ngày 27/08/2011 11:02
nghe hay do anh mong rang cuoc doi nay luon luon co su chan thanh ko co su doi cha'den voi em chuc em thanh cong trong moi linh vuc ><hay co len em nhe^^^^
Gửi bởi phuongcacanh ngày 26/05/2013 13:40
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi phuongcacanh ngày 28/05/2013 21:39
Có 2 người thích
NHỜI hay LỜI có bút tích của Tản Đà đây. Xin viết lại nguyên văn (cả dấu !-?-.-, nhé) (Những chữ nhiều văn bản nhầm với bút tích của TĐ xin được viết chữ in hoa)
Nước non nặng một nhời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ nhời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Sương mai một nắm hao gầy (không phải Xương)
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương!
Giời tây CHIẾU bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non?
DẪU RẰNG sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa
Non XANH đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh BIẾC non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi nhời thề.
"NHỜI" "GIỜI" (từ cổ)
Gửi bởi Vanachi ngày 27/05/2013 07:55
Bác Phuong Ca Canh có thể cho cháu hỏi là bút tích được bác lấy từ đâu được không?
Gửi bởi phuongcacanh ngày 27/05/2013 11:00
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi phuongcacanh ngày 27/05/2013 11:30
Có 1 người thích
Mình chụp lại từ khu lưu niệm Tản Đà (15h26 ngày 25/05/2013) ở đây:
http://vi.wikipedia.org/w...%BA%A3n_%C4%90%C3%A0.jpeg
Khi đưa lên nơi "phi lợi nhuận" mình làm cho độ phân giải thấp:
http://vi.wikipedia.org/w...BAt_t%C3%ADch_T%C4%90.jpg
Gửi bởi hoqvi123456 ngày 29/09/2024 06:09
Tàn Đà viết thơ hay mà bạn này phân tích cảm nhận cũng hay nữa. Cảm ơn những chia sẻ của bạn nhé