Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Tùng Thiện Vương » Cổ duệ từ
Đăng bởi Vanachi vào 27/12/2013 16:17
夫!御善馬良而北,與楚愈離;眾咻一傅之閒,求齊不可。
僕:生從南國,隔斷中原。既殊八方之音,兼失四聲之學。加以:聞無非樂,見併是儒。飭鼓鍾而雜作,誰為識曲之人;談性命以相高,不屑倚聲之業。何由搦管,翻喜填詞。從擩染以言之,其工拙可知矣。
嗟夫,古人不見,樂意難忘。苟志慮之獨專,冀精神之遙契。槐榆數變,篋衍遂多。實欲:享敝帚以為珍,對白雲而自悅而已。
客有謂:娥皇檢譜,猶尋天寶遺聲;宋沇聞鍾,仍獲太常古器。況周德清之韻,本張叔夏之詞源。譜注於姜夔,旨明於陸輔。前而草窗所輯,後之竹垞所抄。此外則宋元語業數百家,明清粹編數十部,予靡不歲添鳩閱,日在吟哦,雖河間伎女,未被管絃,乃衡陽巾箱,頗盈卷帙。但後:廣寧善笛,江夏工琴。北南固遠,而歌喉抗隊,當不殊塗;雅鄭能分,而筆意清空,自然高品。所謂過片擇腔之法,賦情用事之言,去亢宜抑而後揚,入促貴斷而後續,未必舉皆河漢,全是葫蘆,奚不試賣和成績之癡符,彊作馬子侯之解事。廣貽同調,相與和歌,庶幾:後生有作,借以為蓽路藍縷之資;絕業無泯,待或備馬勃牛溲之用也。始聞言而橋舌,爰納手而捫心。
夫!八月江南之美,為世所稱;一池春水之工,干卿何事。柳三變之曉風殘月,左與言之滴粉搓酥。風尚如斯,走僵莫及。設徒誇其疥駱,恐不免如畫龍。無已則尚有一言,或援前例。自昔詩美南音之及籥,既不僭差,以斯翼主樂府之為星,又其分野,縱非皆中鉤中矩,亦當在若存若亡。
今天子:禮樂追修,文明以化。豈應幅隕之廣,而詞學獨無棫樸之多,而古音不嗣也乎?則臣技極知莫逮,顧君言亦有所宜。元次山水樂,無宮徵者何妨;許有孚圭塘,曰款乃者恰好。謝真長之知我,洵子夏之起予。亟浮大白,引足扣舷,旅喚小紅,應聲盪槳。即按宋元樂章四七調,俱調為漁父之歌;朗誦俳優小說數千言,不暇顧天人之目也。
Phù! Ngự thiện mã lương nhi bắc, dữ Sở dũ ly; chúng hưu nhất phó chi nhàn, cầu Tề bất khả.
Bộc: Sinh tòng Nam quốc, cách đoạn Trung nguyên. Ký thù bát phương chi âm, kiêm thất tứ thanh chi học. Gia dĩ: Văn vô phi nhạc, kiến tính thị Nho. Sức cổ chung nhi tạp tác, thuỳ vi thức khúc chi nhân; đàm tính mệnh dĩ tương cao, bất tiết ỷ thanh chi nghiệp. Hà do nhược quản, phiên hỉ điền từ. Tòng nhũ nhiễm dĩ ngôn chi, kỳ công chuyết khả tri hĩ.
Ta phù, cổ nhân bất kiến, nhạc ý nan vong. Cẩu chí lự chi độc chuyên, ký tinh thần chi dao khế. Hoè du sổ biến, khiếp diễn toại đa. Thực dục: hưởng tệ trửu dĩ vi trân, đối bạch vân nhi tự duyệt nhi dĩ.
Khách hữu vị: Nga Hoàng kiểm phổ, do tầm Thiên Bảo di thanh; Tống Duyện văn chung, nhưng hoạch Thái Thường cổ khí. Huống Chu Đức Thanh chi vận, bản Trương Thúc Hạ chi Từ nguyên. Phổ chú ư Khương Quỳ, chỉ minh ư Lục Phụ. Tiền nhi Thảo Song sở tập, hậu chi Trúc Tra sở sao. Thử ngoại tắc Tống - Nguyên ngữ nghiệp sổ bách gia; Minh - Thanh Tuý biên sổ thập bộ, dư mị bất tuế thiêm cưu duyệt, nhật tại ngâm nga, tuy Hà Gian kỹ nữ, vị bị quản huyền, nãi Hành Dương cân tương, phả doanh quyển trật. Đãn hậu: Quảng Ninh thiện địch, Giang Hạ công cầm. Bắc nam cố viễn, nhi ca hầu kháng đội, đương bất thù đồ; nhã Trịnh năng phân, nhi bút ý thanh không, tự nhiên cao phẩm. Sở vị quá phiến, trạch xoang chi pháp, phú tình, dụng sự chi ngôn, khứ kháng nghi ức nhi hậu dương, nhập xúc quý đoạn nhi hậu tục, vị tất cử giai Hà Hán, toàn thị hồ lô, hề bất thí mại Hoà Thành Tích chi si phù, cưỡng tác Mã Tử Hầu chi giải sự. Quảng di đồng điệu, tương dữ hoà ca, thứ cơ: hậu sinh hữu tác, tá dĩ vi tất lộ lam lũ chi tư; tuyệt nghiệp vô mẫn, đãi hoặc bị mã bột ngưu sưu chi dụng dã. Thuỷ văn ngôn nhi kiều thiệt, viên nạp thủ nhi môn tâm.
Phù, bát nguyệt Giang Nam chi mỹ, vi thế sở xưng; “Nhất trì xuân thuỷ” chi công, can khanh hà sự? Liễu Tam Biến chi “Hiểu phong tàn nguyệt”; Tả Dữ Ngôn chi “Trích phấn tha tô”, phong thượng như tư, tẩu cương mạc cập. Thiết đồ khoa kỳ giới lạc, khủng bất miễn như hoạ long. Vô dĩ tắc thượng hữu nhất ngôn, hoặc viên tiền lệ. Tự tích thi mỹ Nam âm chi cập thược, ký bất tiếm sai, dĩ tư Dực chủ Nhạc phủ chi vi tinh, hựu kỳ phân dã, túng phi giai trung câu trung củ, diệc đương tại nhược tồn nhược vong.
Kim Thiên tử: Lễ nhạc truy tu, văn minh dĩ hoá, khởi ưng bức viên chi quảng, nhi từ học độc vô vực bốc chi đa, nhi cổ âm bất tự dã hồ? Tắc thần kỹ cực tri mạc đãi, Cố quân ngôn diệc hữu sở nghi. Nguyên Thứ Sơn Thuỷ nhạc, vô cung chuỷ giả hà phương; Hứa Hữu Phu Khuê Đường, viết “Khoản nãi” giả kháp hảo. Tạ Chân Trường chi tri ngã, tuân Tử Hạ chi khởi dư. Cức phù đại bạch, dẫn túc khấu huyền, lữ hoán Tiểu Hồng, ứng thanh đãng tương. Tức án Tống - Nguyên nhạc chương tứ thất điệu, câu điệu vi Ngư phủ chi ca; lãng tụng bài ưu tiểu thuyết sổ thiên ngôn, bất hạ cố thiên nhân chi mục dã.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 27/12/2013 16:17
Ôi, giỏi đánh xe, có ngựa tốt mà đi về hướng Bắc, cách nước Sở càng xa; nhiều người ồn ào, một người dạy, mong nói tiếng nước Tề chẳng được.
Tôi đây: sinh ở Nam quốc, cách biệt Trung nguyên. Đã khác biệt tiếng nói tám hướng, lại thất truyền sự học bốn thanh. Thêm nữa: Nghe đều là nhạc, thấy thảy là Nho. Trang sức bằng chuông trống mà chế tác hỗn tạp, ai là người hiểu khúc điệu đây? bàn về tính tình thì cùng cho thế là cao, chẳng thiết gì nghiệp học ỷ thanh nữa. Vì đâu cầm mà bút, lại thích điền từ? Từ sự tẩm nhiễm ấy mà nói, thì sự khéo vụng khá biết được vậy.
Ôi, người xưa nào thấy, ý nhạc khó quên. Chỉ biết dốc chí lự cho chuyên nhất, mong tinh thần có thể khế hợp với thuở đã xa. Hoè du mấy phen biến đổi, rương đựng thực cũng đã nhiều. Thực muốn: coi cái chổi cùn của mình như của báu, đối diện với mây trắng đặng tự vui mà thôi.
Khách có kẻ nói: Nga Hoàng xét nhạc phổ, còn tìm về được dư thanh của thời Thiên Bảo; Tống Duyện nghe tiếng chuông, vẫn tìm được nhạc khí cổ của Thái thường tự. Huống nữa sách Âm vận của Chu Đức Thanh, gốc ở sách Từ nguyên của Trương Thúc Hạ. Chú từ phổ cậy ở Khương Quỳ, sáng yếu chỉ nhờ vào Lục Phụ. Trước do Thảo Song biên tập, sau thì Trúc Tra chép sao. Ngoài ra còn, mấy trăm nhà ngữ nghiệp thời Tống - Nguyên; vài chục pho Tuý biên thời Minh - Thanh, không năm nào tôi không sưu tập, ngày ngày ngâm nga, tuy kỹ nữ Hà Gian cũng chưa đủ để thổi sáo đánh đàn, như rương nhỏ của Hành Dương, chứa đầy sách vở. Nhưng sau: người ở Quảng Ninh tài thổi sáo, người ở Giang Hạ giỏi gảy đàn. Bởi bắc nam vốn xa cách, mà giọng hát bổng trầm, vốn chẳng khác đường; nhã tục năng phân, mà bút ý thanh không, tự nhiên cao giá. Cái gọi là phép quá phiến, chọn xoang, lời phú tình, dụng sự, thanh khứ cao cần phải kìm rồi mới lên, thanh nhập dồn dập quý ở chỗ đứt rồi lại nối, chưa hẳn thảy đều là một tấc đến trời, hay thảy toàn là thùng rỗng kêu to, thì sao không bán bùa khờ của Hoà Thành Tích, gượng làm như hiểu chuyện kiểu Mã Tử Hầu. Truyền rộng mãi sự đồng điệu về sau, cùng nhau hoà nhịp, ngõ hầu: hậu sinh có sáng tác, mượn đó làm xe tre, áo rách; sự học đã đứt không bị mất, hẳn có tác dụng như nước tiểu ngựa, hay loài khuẩn bé nhỏ. Thoạt nghe lời mà cứng lưỡi, bèn rụt tay mà nhủ lòng.
Ôi, cảnh đẹp Giang Nam tháng Tám, được người đời xưng tụng; sự khéo léo của câu “Một ao nước xuân”, can chi đến chàng. Câu: “Gió sớm trăng tàn” của Liễu Tam Biến, câu “Nhỏ phấn thoa dầu” của Tả Dữ Ngôn. Phong khí như thế, theo đòi chẳng kịp. Ví phỏng chỉ khoe chỗ kém cỏi của mình, e không tránh được việc khoe mẽ. Không thế thì hãy có một lời, hoặc cứ noi theo tiền lệ. Từ xưa thơ coi tiếng sáo của âm Nam là đẹp, đã không hề tiếm sai, lấy sao Dực này làm sao chủ cho Nhạc phủ, lại theo sự phân dã của nó, ví như thảy đều không phải thước tròn thước vuông, thì cũng đáng để lúc nhớ lúc không vậy.
Nay Thiên tử: Sửa sang lại lễ nhạc, giáo hoá bằng nền văn trị rực rỡ, há chỉ có cương vực mở rộng, mà riêng từ học chẳng nhiều như như cây vực sum suê, còn âm nhạc cổ không nối lại được nữa chăng? Bởi thế thần đây tuy vốn biết tài năng chẳng theo kịp [người xưa], xét lời Cố quân nói cũng có chỗ phải lẽ. Thuỷ nhạc thuyết của Nguyên Thứ Sơn, không có cung có chuỷ thì cũng có hại gì đâu; tập Khuê Đường của Hứa Hữu Phu, đặt tên là “Khoản nãi” rất hợp. Cảm tạ Chân Trường hiểu lòng ta, tin rằng Tử Hạ phát khởi được ý ta. Vội phạt một chén lớn, đưa chân gõ mạn thuyền, khách gọi Tiểu Hồng, đáp lời khua chèo. Liền án theo hai mươi tám điệu nhạc chương thời Tống - Nguyên, điệu đều là bài hát của Ngư phủ; đọc lớn mấy ngàn lời tiểu thuyết mua vui, chẳng đoái đến mắt nhìn của người trời vậy.