獄中寄子由二首其二

柏台霜氣夜淒淒,
風動琅璫月向低。
夢繞雲山心似鹿,
魂飛湯火命如雞。
眼中犀角真吾子,
身後牛衣愧老妻。
百歲神遊定何處,
桐鄉知葬浙江西。

 

Ngục trung ký Tử Do nhị thủ kỳ 2

Bách đài sương khí dạ thê thê,
Phong động lang đang nguyệt hướng đê.
Mộng nhiễu vân san tâm tự lộc,
Hồn phi thang hoả mệnh như kê.
Nhãn trung tê giác chân ngô tử,
Thân hậu ngưu y quý lão thê.
Bách tuế thần du định hà xứ,
Đồng Hương tri táng Chiết Giang tê (tây).

 

Dịch nghĩa

Hơi sương đêm ở Bách đài buồn lạnh lẽo,
Vòng xích động leng keng ánh trăng xế tà.
Trong mơ, được về quê hương, lòng thấp thỏm không yên,
Hồn sợ nước sôi lửa bỏng mạng sống như gà.
Mắt nhìn thấy tướng mạo của con cũng không tục,
Sau khi chết mặc áo trâu thẹn với vợ già.
Khi trăm tuổi thần về đâu là định,
Dân Đồng Hương biết táng ta ở tây Chiết Giang.


Bài này tuyển từ Tô Thức thi tập quyển 19 do Trung Hoa thư cục xuất bản.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Đêm sương Đài Bách lạnh lùng qua
Vòng xích leng keng ánh nguyệt tà
Mấy núi mơ quanh tim tựa dẽ
Nước than hồ sợ mạng như gà
Sừng tê trước mắt nhìn con trẻ
Áo nghé sau thân thẹn vợ già
Trăm tuổi thần du đâu chốn định
Đồng hương Tây Chiết táng mồ ta.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Bách Đài sương lạnh hơi đêm ra,
Xích động leng keng trăng xế tà.
Mộng nhớ cố hương lòng thấp thỏm,
Hồn than lửa bỏng mạng như gà.
Mắt trông tê giác con ta thật,
Chết mặc áo trâu thẹn vợ già.
Trăm tuổi thần về đâu chốn định,
Chiết Giang dân biết táng mồ ta.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời