Thơ » Trung Quốc » Thanh » Tào Tuyết Cần » Hồng lâu mộng
恒王好武兼好色,
遂教美女習騎射;
穠歌豔舞不成歡,
列陣挽戈為自得。
眼前不見塵沙起,
將軍俏影紅燈裡;
叱吒時聞口舌香;
霜矛雪劍嬌難舉。
丁香結子芙蓉條,
不繫明珠繫寶刀;
戰罷夜闌心力怯,
脂痕粉漬污鮫綃。
明年流寇走山東,
強吞虎豹勢如蜂;
王率天兵思剿減,
一戰再戰不成功;
腥風吹折隴中麥,
日照旌旗虎帳空。
青山寂寂水凘凘,
正是恒王戰死時;
雨淋白骨血染草,
月冷育昏鬼守屍。
紛紛將士只保身,
青州眼見皆灰塵;
不期忠義明閨閣,
憤起恒王得意人。
恒王得意數誰行?
姽嫿將軍林四娘;
號令秦姬驅趙女,
穠桃艷李臨疆場。
紡鞍有淚春愁重,
鐵甲無聲夜氣涼;
勝負自難先預定,
誓盟生死報前王。
賊勢猖獗不可敵,
柳折花殘血凝碧;
馬踐胭脂骨髓香,
魂依城郭家鄉隔。
星馳時報入京師,
誰家兒女不傷悲!
天子驚慌愁失守,
此時文武皆垂首。
何事文武立朝綱,
不及閨中林四娘?
我為四娘長嘆息,
歌成餘意尚傍徨!
Hằng vương hiếu vũ kiêm hiếu sắc,
Toại giao mỹ nữ tập kỵ xạ.
Nùng ca diễm vũ bất thành hoan,
Liệt trận vãn qua vi tự đắc.
Nhãn tiền bất kiến trần sa khởi,
Tướng quân tiếu ảnh hồng đăng lý.
Sất tra thì văn khẩu thiệt hương,
Sương mâu tuyết kiếm kiều nan cử.
Đinh hương kết tử phù dung điều,
Bất hệ minh châu hệ bảo đao.
Chiến bãi dạ lan tâm lực khiếp,
Chi ngân phấn tí ô giao tiêu.
Minh niên lưu khấu tẩu Sơn Đông,
Cường thôn hổ báo thế như phong.
Vương suất thiên binh tư tiễu giảm,
Nhất chiến tái chiến bất thành công.
Tinh phong xuy chiết lũng trung mạch,
Nhật chiếu tinh kỳ hổ trướng không.
Thanh sơn tịch tịch thuỷ ti ti,
Chính thị Hằng vương chiến tử thì.
Vũ lâm bạch cốt huyết nhiễm thảo,
Nguyệt lãnh dục hôn quỷ thủ thi.
Phân phân tướng sĩ chỉ bảo thân,
Thanh Châu nhãn kiến giai khôi trần.
Bất kỳ trung nghĩa minh khuê các,
Phẫn khởi Hằng vương đắc ý nhân.
Hằng vương đắc ý sổ thuỳ hàng?
Quỷ hoạch tướng quân Lâm Tứ Nương.
Hiệu lệnh Tần cơ khu Triệu nữ,
Nùng đào diễm lý lâm cương trường.
Phưởng yên hữu lệ xuân sầu trọng,
Thiết giáp vô thanh dạ khí lương.
Thắng phụ tự nan tiên dự định,
Thệ minh sinh tử báo tiền vương.
Tặc thế xương quyết bất khả địch,
Liễu chiết hoa tàn huyết ngưng bích.
Mã tiễn yên chi cốt tuỷ hương,
Hồn y thành quách gia hương cách.
Tinh trì thì báo nhập kinh sư,
Thuỳ gia nhi nữ bất thương bi!
Thiên tử kinh hoang sầu thất thủ,
Thử thì văn vũ giai thuỳ thủ
Hà sự văn vũ lập triều cương,
Bất cập khuê trung Lâm Tứ Nương!
Ngã vị Tứ Nương trường thán tức,
Ca thành dư ý thượng bàng hoàng.
Hằng vương thích võ nghệ lẫn thích sắc đẹp,
Nên để cho những người đẹp luyện tập cưỡi ngựa bắn cung.
Tiếng hát nồng thắm, điệu múa kiều diễm chưa lấy làm vui,
Chỉ có vác đòng bày trận mới là vừa ý.
Trước mắt không thấy cảnh cát bụi nổi lên,
Trong ánh đèn hồng đã soi bóng dáng tướng quân xinh đẹp.
Lúc hò reo, thấy miệng lưỡi đều thơm ngát.
Người yểu điệu khó nhấc nổi mâu sương kiếm tuyết.
Chuỗi hạt đinh hương, dây phù dung,
Chẳng buộc minh châu lại buộc đao.
Sau khi tập trận xong, giữa đêm tàn, trong lòng vẫn còn e sợ,
Son phấn hoen ướt làm ố lụa giao.
Năm sau có giặc nổi lên ở Sơn Đông,
Sức mạnh như nuốt luôn hổ báo, khí thế như đàn ong.
Vua (tức Hằng vương) thống suất binh trời đi dẹp loạn,
Giao chiến một trận, hai trận đều không thành công.
Cơn gió mang mùi tanh thổi gãy những thân lúa trong thung lũng,
Ánh mặt trời chiếu bóng tinh kỳ, trong hổ trướng trống không.
Núi xanh hoang lặng, nước chảy rì rì,
Chính là khi Hằng vương tử trận.
Mưa ướt đầm xương trắng, máu nhuộm cỏ,
Ánh trăng lạnh hầu như mờ đi, lũ quỷ canh xác chết.
Tướng sĩ đều hoang mang bối rối, chỉ biết giữ thân mình,
Trước mắt thấy Thanh Châu đều toàn tro bụi.
Ngờ đâu có người trung nghĩa làm sáng ngời chốn khuê các,
Người được Hằng vương yêu quý nổi giận đứng lên.
Được Hằng vương yêu quý đếm được mấy người?
Đó là Quỷ hoạch tướng quân Lâm Tứ Nương (cô Tứ họ Lâm).
Hiệu lệnh cho các cô gái Tần, dẫn đầu các cô gái Triệu,
Những đoá hoa đào thắm mận đẹp đi ra chốn chiến trường.
Trên yên ngựa bằng sợi xe rơi hạt lệ, mối sầu xuân mang nặng.
Áo giáp sắt lặng lẽ giữa khí trời khuya mát lạnh.
Chuyện thắng thua khó mà tính trước được,
Nhưng đã thề nguyền sống chết để báo đáp tiền vương.
Thế giặc còn mạnh mẽ không địch nổi,
Liễu gãy hoa tàn, máu đọng xanh biếc.
Chân ngựa giẫm đạp lên son phấn, xương tuỷ ngát mùi thơm.
Hồn vẫn phiêu dạt bên thành quách, xa chốn quê nhà.
Tin tức rong ruổi đưa vào kinh sư,
Không có nữ nhi nhà nào là không thấy thương xót!
Thiên tử kinh hoàng buồn bực nghe tin thất thủ,
Lúc ấy bá quan vănv ũ đều chỉ biết gục đầu.
Vì sao trong các quan văn vũ đứng giữa triều đình,
Không có ai bằng được Lâm Tứ Nương là người trong khuê các?
Ta vì Tứ Nương mà than thở mãi, khúc ca làm xong rồi,
Lòng dạ vẫn còn cảm thấy bàng hoàng.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 01/08/2005 00:08
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi ngày 01/08/2005 00:44
Khoẻ và đẹp Hằng vương thích cả,
Dạy mỹ nhân kỵ xạ đua tà.
Hát hay múa dẻo chưa vui,
Giương cung bày trận được người thích hơn.
Mắt nào thấy nổi cơn gió bụi,
Trước bóng đèn đã rọi quân trang.
Miệng hò, sặc những mùi hương,
Mềm tay gươm tuyết dao sương ngượng ngùng.
Hạt đinh hương, phù dung dây giắt,
Đeo dao này đành vất châu kia.
Tập xong uể oải đêm khuya,
Ngấn son nhường đã đầm đìa lụa giao.
Sơn Đông giặc năm sau nổi loạn,
Ong kéo đàn, chực ngốn hùm beo.
Diệt thù vua dẫn quân theo,
Ngờ đâu thử một hai keo đã chùng.
Gió tanh ngắt thổi tung lúa nội,
Trướng hùm đâu nắng rọi bóng cờ.
Núi vẳng lặng, nước lờ đờ,
Nơi Hằng vương chết bây giờ là đây.
Xương dầm nước, máu rây ngọn cỏ,
Bóng giăng tà, thây nọ ma canh.
Quan quân chỉ biết giữ mình,
Ngồi nhìn khắp cõi châu Thanh mịt mùng.
Trong khuê các tỏ lòng trung phẫn,
Xui ái cơ nổi giận đùng đùng.
Ái cơ thứ mấy trong cung?
Thứ tư là gái anh hùng họ Lâm.
Nghiêm lệnh xuống ả Tần, gái Triệu,
Trăm mặt hoa đưa diễu chiến trường.
Lệ xuân đè chĩu yên cương,
Áo bào lặng lẽ, đêm trường hắt hiu.
Cuộc thua được khó chiều định trước,
Đáp ơn người trọn ước tử sinh.
Giặc kia hung hãn thôi đành,
Hoa tan tác cánh, huyết xanh xám màu.
Quyện mùi phấn vó câu ngào ngạt,
Xa gia hương hồn dạt bên thành.
Tin sương sớm báo về kinh,
Chị em nào chẳng xót tình cho ai.
Nỗi mất đất con trời càng bực,
Nhìn trăm quan đầu gục ngồi trơ.
Trong triều văn vũ bây giờ,
Đã người nào được như là Lâm nương?
Lâm nương nghĩ đến mà thương,
Ca rồi lòng những bàng hoàng khôn nguôi!