Thơ » Trung Quốc » Tam Quốc
Đăng bởi Vanachi vào 19/04/2009 00:50
Có 1 người thích
Đa nghi, gian hùng... Có rất nhiều lời bình về nhân vật Tào Tháo trong bộ kỳ thư Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, nhưng có lẽ bốn chữ trên là hai từ người ta thường nói đến nhiều nhất. Cùng với Khổng Minh Gia Cát Lượng, Quan Công,... có thể nói, Tào Tháo là một trong những nhân vật được La Quán Trung xây dựng sống động nhất, thành công nhất, có sức hấp dẫn nhất.
Chính vì hình tượng Tào Tháo trong tiểu thuyết được xây dựng quá tuyệt vời, nên Tào Tháo trong Tam Quốc đã lấn át hình tượng Tào Tháo nhà quân sự, nhà chính trị lỗi lạc, xuất chúng... trong sự thật lịch sử. Và chắc cũng ít ai có thể ngờ rằng Tào A Man lại là một thi nhân kiệt xuất, lãnh tụ của thi đàn Kiến An, người có cống hiến lớn nhất cho văn hoá Trung Quốc thời ấy, người khai sáng dòng thơ tả cảnh thuần tuý, nhà thi sử đầu tiên, là người thứ nhất mượn nhạc phủ cổ để miêu tả thời sự, người phục sinh cho thơ tứ ngôn, “tổ sư cải tạo văn chương” (Nguỵ Tấn phong độ cập kỳ văn chương dữ dược cập tửu chi quan hệ, Lỗ Tấn), người đặt nền móng cho “Phong cốt Kiến An”... của Trung Quốc, với phong cách đặc thù: “khí vận trầm hùng” (Thi bình, Ngạo Đào Tôn), “khí lực hùng tráng bao trùm tất thảy, chư tử Kiến An chưa ai được như vậy” (Thi khái, Lưu Hi Tải), “cổ trực hùng hồn, nhiều câu bi tráng” (Thi phẩm, Chung Vinh), “lời như búa bạt đỉnh núi” (Thi kính tổng luận, Thời Ung)...
Tào Tháo (155-220) tự Mạnh Đức, tiểu tự A Man, lại còn có tên là Cát Lợi, người ở quận Tiêu, nước Bái (nay là huyện Hào, tỉnh An Huy, Trung Quốc). Cha là Tào Tung, vốn họ Hạ Hầu nhưng sau làm con nuôi của hoạn quan Trung thường thị Tào Đằng thời Hán Hoàn Đế, nên đổi làm họ Tào, về sau làm quan đến thái uý. Tào Tháo xuất thân trong gia đình hoạn quan, từ nhỏ đã thích săn bắn, ca vũ và đa mưu quyền biến. Năm 20 tuổi đỗ hiếu liêm, từng vì tinh thông cổ học mà được Hán Linh Đế phong làm nghị lang.
Khi khởi nghĩa Hoàng Cân bùng nổ, ông nhậm chức kỵ đô uý, đem binh trấn áp. Đầu thời Hán Hiến Đế, Đổng Trác chuyên quyền, muốn phế vua đoạt ngôi, Tào Tháo gia nhập liên quân thảo trừ. Sau khi đánh bại quân Hoàng Cân, thâu được hơn ba vạn quân nông dân khởi nghĩa, từ đó quân lực mạnh dần lên, và trở thành một trong những quần hùng ôm mộng thống nhất Trung Nguyên.
Đến năm thứ nhất niên hiệu Kiến An (196), ông đón Hiến Đế về Hứa Đô (nay là phía đông Hứa Xương, tỉnh Hà Nam), rồi từ đó “hiếp thiên tử dĩ lệnh chư hầu”; lần lượt đánh bại các địch thủ Lữ Bố, Viên Thiệu, Viên Thuật... và trở thành người có thực quyền thống trị ở phương Bắc lúc bấy giờ, cùng Ngô Tôn Quyền ở Giang Đông và Lưu Bị ở Tây Thục tạo thành thế chân vạc tranh hùng. Sử gọi thời kỳ này là Tam Quốc. Năm 208, ông giữ chức thừa tướng, năm 216 làm Nguỵ Vương, năm 220 lâm bệnh và ôm theo xuống tuyền đài mối hận chưa thống nhất được Trung Nguyên. Sau, Tào Phi phế vua Hán, tự xưng đế, truy phong Tào Tháo là Nguỵ Vũ Đế.
Tào Tháo là nhà quân sự, nhà chính trị kỳ tài cuối thời Đông Hán. Đồng thời ông cũng là một tác giả có thành tựu rất lớn, “ngoại định võ công, nội hưng văn học” (Nguỵ chí, truyện Tuân Vực), không những có thể tập hợp được những người có “trị quốc dụng binh chi thuật” về dưới trướng mình mà còn quy tụ được rất nhiều văn sĩ về với Tào môn. Đương thời các văn nhân tập trung ở Nghiệp Hạ (nay là phía bắc An Dương, tỉnh Hà Nam), trong số ấy có rất nhiều người tài hoa, và Tào Tháo chính là người bảo hộ và dẫn đường cho các sáng tác của họ. Thiên Thời tự trong Văn tâm điêu long viết: “Nguỵ Vũ Đế (tức Tào Tháo) ở địa vị tôn quý mà rất yêu thích văn chương”.
Tào Tháo, Tào Phi, Tào Thực cùng với Khổng Dung, Vương Xán, Lưu Trinh, Trần Lâm, Nguyễn Vũ, Từ Cán, Ứng Sướng chính là linh hồn của văn học Kiến An. Người sau thường gọi họ là Tam Tào và Thất Tử.
Quyền lực chính trị và tài năng thơ ca, hai yếu tố này đã đưa Tào Tháo lên địa vị lãnh tụ thi đàn Kiến An.
Hiện tại, còn lưu giữ được 26 bài thơ của Tào Tháo và tất cả đều là nhạc phủ ca từ. Nguỵ thư viết ông “đăng cao tất phú, cập tạo tân thi phi chi quản huyền, giai thành nhạc chương”. Qua đó có thể thấy, Tào Tháo không những là một nhà thơ, mà còn là người say mê âm nhạc. Và điều đặc biệt trong sáng tác của ông là sự kế thừa truyền thống hiện thực chủ nghĩa “cảm ư ai lạc, duyên sự nhi phát” (cảm động ở những nỗi vui buồn, theo đó mà phát ra) của dân ca nhạc phủ (theo Hán thư - Nghệ văn chí), dùng hình thức nhạc phủ cựu đề để chuyển tải những nội dung mới mẻ. Cũng như chủ trương dùng người tài không kể thân phận sang hèn, trong sáng tác, Tào Tháo dùng những thể thơ ca dân gian (mà thời đó bị các thi sĩ quý tộc khinh thường) làm hình thức sáng tác và phương tiện bộc lộ tình cảm. Trong số đó có rất nhiều danh tác như: Giới lộ hành, Cảo lý hành, Khổ hàn hành, Khước đông tây môn hành, Đoản ca hành, Quy tuy thọ, Đối tửu, Độ quan sơn, Quan thương hải và Mạch thượng tang với hình thức đa dạng, nội dung phong phú.
Những động loạn của hiện thực xã hội và nỗi thống khổ của nhân dân đương thời được phản ánh một cách sâu sắc vào trong thơ ca Tào Mạnh Đức. Vì vậy người ta gọi ông là bộ Hán mạt thực lục và Thi sử (theo Chung Tinh trong Cổ thi quy) trước Đỗ Phủ đến 500 năm. Chẳng hạn như các tác phẩm Giới lộ hành và Cảo lý hành nguyên là những bài vãn ca (bài ca phúng điếu) được Tào Tháo mượn “xác” để tả thời sự. Thông qua việc miêu tả một cách mới mẻ và chân thực sự tao loạn của thời đại, những tác phẩm này cũng đồng thời bộc lộ tình cảm ưu thời mẫn thế của nhà thơ:
Đời hăm hai nhà Hán,Năm Trung Bình thứ 6 (189), Hà Nam doãn đại tướng quân Hà Tiến mưu tính diệt hoạn quan, bèn mật triệu Đổng Trác vào kinh thành Lạc Dương để ra tay. Nhưng cơ mưu bại lộ, Hà Tiến bị bọn hoạn quan Trương Nhượng giết chết. Trương Nhượng đem Thiếu Đế và Trần Lưu Vương chạy khỏi cung. Sau khi đến kinh, Đổng Trác đưa Thiếu Đế trở về, không lâu sau đó phế Thiếu Đế làm Hoằng Nông Vương, cuối cùng đem giết luôn, rồi đưa Trần Lưu Vương lên ngôi, tức Hán Hiến Đế. Khi các châu quận khởi binh ở Quan Đông thảo phạt Đổng Trác, Đổng bèn đốt cung Lạc Dương bức Hiến Đế thiên đô về Trường An. Tào Tháo tận mắt chứng kiến cuộc biến loạn này, đặc biệt là khi nhìn thấy cảnh hoang tàn thảm thương của Lạc Dương đã sinh niềm cảm thương vô hạn. Và Giới lộ hành ra đời. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, hồi thứ 3 cũng có mấy câu thơ tả việc này như sau:
Dùng những kẻ bất tài.
Một lũ khỉ đội mũ,
Trí mọn đòi múa may
Chần chừ không dám quyết,
Để hoạn quan ra tay.
...
Gian thần cướp quyền bính,
Giết vua diệt đế kinh.
Cơ nghiệp tiên vương mất,
Tông miếu bị tan tành...
Vận nhà Hán đến ngày tàn,Cảo lý hành là bài thơ ngũ ngôn 18 câu kể việc bọn Viên Thiệu, Viên Thuật mượn cớ thảo trừ Đổng Trác gây bao cảnh tang tóc, điêu linh cho dân lành. Nổi tiếng nhất là những vần thơ cuối cùng, những câu được xem là “danh cú cổ kim”:
Hà Tiến vô trí dự hàng tam công.
Mấy phen chẳng kể lời trung,
Tránh sao mũi kiếm
trong cung liễu đời.
Bạch cốt lô vu dãMấy câu thơ tả thực vô cùng sắc sảo, đọc lên nghe lạnh gáy. Cảnh chiến trường như hiện lên trước mắt đầy vẻ hoang tàn, mịt mù tử khí, ai nghe cũng rùng mình kinh sợ. Câu chữ rất tự nhiên, giản dị nhưng nội lực hùng hậu, có sức rung chuyển kinh người.
Thiên lý vô kê minh
Sinh dân bách di nhất
Niệm chi đoạn nhân trường
(Đồng hoang xương phơi trắng
Ngàn dặm tiếng gà không
Trăm người sống sót một
Càng nghĩ càng quặn lòng)
Đường lên núi Thái HàngCảnh thiên nhiên thật hùng vĩ, hoành tráng và đẹp đẽ nhưng cũng chất chứa bao hiểm nguy, khắc nghiệt. Trích đoạn trên là mười câu đầu trong kiệt tác Khổ hàn hành - tả một trong những cuộc hành quân của Tào Tháo cùng ba quân.
Vời vợi khó khăn thay
Núi non lối khuất khúc
Xe ngựa muốn lung lay
Cỏ cây xơ hiu quạnh
Gió lạnh rít ù tai
Beo gấu luôn rình rập
Hổ báo lượn đó đây
Núi khe bóng người vắng
Đầy trời tuyết bay bay...
Hồng nhạn nơi ải bắc,Đoản ca hành và Quy tuy thọ là những tác phẩm thể hiện tinh thần và hùng tâm thống nhất thiên hạ của Tào Tháo, đây cũng là hai danh tác trong thơ tứ ngôn của ông. Đó là tâm chí thống nhất Trung Nguyên, là tình cảm mãnh liệt của bản thân và tâm tình bi thương khẳng khái, nỗi ưu tư vì đại nghiệp chưa thành của khách anh hùng trước bóng hoàng hôn cuộc đời.
Chốn quạnh quẽ sơ hoang.
Tung cánh hơn vạn dặm,
Dừng, bay tự thành hàng.
Đông, sang Nam ăn thóc,
Xuân, lại về Bắc phương.
Giữa đồng cỏ bồng chuyển,
Theo gió muôn nẻo đường.
Lớn lên nào biết gốc,
Nghìn năm tuyệt hội tương.
Hỏi chàng chinh phu trẻ,
Sao đi mãi không dừng?
Yên cương không lơi lỏng,
Áo giáp mặc thường thường.
Cái già lừ đừ đến,
Bao giờ qui cố hương?
Rồng thần ẩn vực thẳm,
Mãnh thú lượn non cao.
Cáo chết quay về núi,
Cố hương quên được sao?
Nâng chén hát caĐây là sáu dòng đầu trong danh tác Đoản ca hành. Cả bài thơ là một nỗi lòng ngập tràn tâm sự và niềm cảm khái về kiếp người mong manh, khổ đau.
Đời người bao là
Nhẹ như sương sớm
Khổ nhiều ngày qua
Thở than buồn giận
Ưu phiền nào tha...
Thọ như rùa thiêngRùa thiêng, rồng thần, ngựa thiên lý, anh hùng,... tất cả cuối cùng cũng trở về cát bụi, cũng hoá hư vô. Có lẽ sự trải nghiệm đã khiến cho Tào Tháo có cái nhìn thẳm sâu về cuộc sống.
Cũng có lúc chết
Rồng cưỡi mây mù
Cũng ra tro hết
Ngựa già nằm chuồng
Chí ở bốn phương
Anh hùng về cuối
Hăng hái như thường...
Nâng chén caỞ bài Độ quan sơn, ngoài việc mơ tưởng một xã hội lý tưởng với thánh quân minh chúa hết lòng với nhân dân, Tào Tháo còn khẳng định: thứ đáng quý nhất trong trời đất là con người. Sống trong loạn đao binh khốc liệt, mạng người như cỏ rác, sống chết trong đường tơ kẽ tóc mà ông nhận ra và khẳng định được giá trị con người như vậy, kể cũng rất đáng ngạc nhiên đối với người từng có câu nói chấn động lịch sử: Ta thà phụ người chứ không để người phụ ta. Nhưng quan sát toàn bộ thơ ca của Tào Tháo, thì dường như còn có một Tào Tháo khác vậy. Qua gần 2000 năm, thơ ca còn lại không thể là giả dối, nhất là đối Tào Mạnh Đức:
Buổi thái hoà
Quan không thúc thuế
Vua chúa sáng hiền
Trung lương tướng tá tài ba.
Cùng nhau nhường kính
Tranh chấp không xảy ra
Ba năm cày cấy
Chín năm vẫn ấm no
Lúa gạo đầy kho
Việc nặng không đến người già.
Mưa thuận gió hoà
Ngũ cốc được mùa
Bắt ngựa hoang
Giúp canh tác mùa màng.
Các vị công, hầu, bá, tử, nam
Đều yêu thương dân chúng
Thưởng phạt phân minh
Coi dân như con em mình
Kẻ phạm lễ pháp
Tuỳ nặng nhẹ xử hình.
Ngoài đường của rơi không ai nhặt
Trong lao tù vắng tanh
Mùa đông không có án
Người già cả
Sống trọn tuổi trời
Cả thảo mộc côn trùng,
ân đức đều đến nơi.
Giữa trời đất,Đặc biệt được ca ngợi là thơ tứ ngôn trữ tình, người đời sau gọi ông là tác gia phục hưng tứ ngôn thi. Thẩm Đức Tiềm nói: “Tào công tứ ngôn, ư tam bách thiên ngoại, tự khai kỳ hưởng”. Bởi vì từ sau Kinh thi (tam bách thiên), thơ tứ ngôn ngày càng uỷ mị suy yếu, dần dần bị thơ ngũ ngôn thay thế, rất hiếm có giai tác xuất hiện. Thế mà đến giai đoạn này, Tào Tháo lại liền một lúc cho ra đến mấy kiệt tác như vậy, khiến thơ tứ ngôn được một phen tái sinh với vẻ đẹp đến kỳ lạ.
Người là nhất.
Lập vua chăn dân,
Làm ra phép tắc.
Bánh xe chân ngựa,
Ngự tuần khắp chốn.
Thưởng phạt rõ ràng,
Thứ dân đều biết...
Trên mỏm núi caoBài thơ rất ngắn và là chương thứ nhất trong Bộ xuất hạ môn hành. Tuy nhỏ bé, nhưng bài thơ lại vẽ ra một khung cảnh thiên nhiên vô cùng khoáng đạt, kỳ vĩ, tuyệt đẹp.
Phóng trông biển rộng
Cuồn cuộn nước reo
Gò đảo sừng sững
Cây cối tầng tầng
Cỏ hoa nghìn sắc
Gió thu hiu hắt
Sóng vọt tưng bừng
Mặt trăng mặt trời
Từ đó sáng ngời
Ngân hà rực rỡ
Từ đó ra đời.
Cưỡi cầu vồng,Tóm lại, thơ Tào Tháo biểu hiện phong cách đặc trưng với sự hào sảng tung hoành và bi tráng hào hùng, biểu hiện một cách tập trung tinh thần của thời đại. Thơ ông không chỉ mở ra một thi phong mới cho thời đại Kiến An, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển văn học sau này của văn học Trung Quốc, và việc ông dùng nhạc phủ cựu đề để miêu tả thời sự cũng tạo ra nhiều gợi ý cho các thi nhân đời sau. Chẳng hạn như bài tân đề nhạc phủ thi Tức sự danh thiên của Đỗ Phủ, hay cuộc vận động tân nhạc phủ của nhóm Bạch Cư Dị... đều có thể truy nguyên đến nhạc phủ ca từ của Tào Tháo.
Đạp mây đỏ,
Lên đỉnh Cửu Nghi nhập Thiên cung.
Qua Thiên Hán,
Đến Côn Luân,
Gặp Tây Vương Mẫu
cùng Đông Quân.
Bạn Xích Tùng,
Với Tu Môn,
Cầu đạo bí phương di dưỡng tinh thần.
Ăn linh chi,
Uống cam tuyền,
Cầm trượng quế và đeo hoa lan.
Dứt chuyện đời,
Du đất trời,
Như gió lốc (soát) bay nhảy muôn nơi.
Bóng chưa đổi,
Băng ngàn dặm,
Thọ như Nam Sơn,
không quên lỗi lầm.