Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?

Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan

Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
Khúc hoàn ca rớm lệ

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Em có bao giờ em nhớ ta?


Quang Dũng viết bài thơ này vào năm 1949 để tặng cho “người tình thơ” của ông, một kỹ nữ trước kháng chiến tên là Nhật, cô còn có mỹ danh khác là Akimi. Theo hồi ký của Phạm Duy, “Khi cùng trung đoàn Tây Tiến đóng quân ở Hoà Bình, nhà thơ Quang Dũng có được nghỉ phép để về thăm gia đình. Trên đường về làng Phùng, anh đã tạt qua nơi có tên là kinh Đào ở gần chợ Đại, thăm người tình cũ tên là Nhật. Người tình này, còn có một mỹ danh nữa là Akimi, nàng có hàng cà phê trong vùng cách mạng mà ông thường hay ghé uống. Nàng chính là người đẹp Sơn Tây, nguồn cảm hứng dạt dào cho anh viết bài thơ Đôi mắt người Sơn Tây nổi tiếng”. Vào thời điểm chiến tranh lan rộng, cô gái tên Nhật (Akimi) đã theo mẹ về thành và tới năm 1954, thì di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn, một thời là kiều nữ của nhà hàng Tự Do, đến 1975 thì sang Mỹ định cư.

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc thành bài hát Đôi mắt người Sơn Tây. Bài thơ này có rất nhiều dị bản do chính tác giả sửa trong các bản in khác nhau, cũng như do quá trình truyền tụng của những người yêu thơ ông. Tiêu đề bài thơ ban đầu là Đôi mắt người Sơn Tây, sau được ông sửa thành Mắt người Sơn Tây. Bản ở trên căn cứ theo Tuyển tập Quang Dũng (NXB Văn học, 2000).

Bản in trong Mây đầu ô (NXB Tác phẩm mới, 1986):
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì.

Vầng
trán em mang trời quê hương
Mắt em như nước giếng thôn làng
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương?...

Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn.
Đất đá ong khô nhiều suối lệ
Em có bao ngày lệ chứa chan
?

Đôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Thương vườn ruộng khôn khuây

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng.

Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?
Một bản chép tay của tác giả in trong Mắt người Sơn Tây - thơ văn tinh tuyển (NXB Hội Nhà văn, 2012) chỉ khác bản in trong tập Mây đầu ô ở khổ đầu tiên:
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ đêm ấy cũng chia ly
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba .
Bản in trong sách Thơ Quang Dũng (NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2006):
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Vầng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?

Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan

Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi cũng có thằng con bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Đôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Cho nhẹ lòng nhớ thương
Em mở cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Em có bao giờ em nhớ ta?


[Thông tin 4 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (8 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Dị bản câu chữ về “Mắt người Sơn Tây”

Trong bài “Đài tưởng niệm thơ Tây Tiến” của mình được in ở Báo Công an nhân dân số 79 cuối tuần ra ngày 26/7/2009, tôi có viết về nhà thơ Quang Dũng như thế này: “Từ quê tôi vùng bán sơn địa Thạch Thất ra quê ông chỉ mất một thôi đi bộ, khoảng mươi cây số, vượt qua đường ngầm vắt ngang dòng sông Đáy là tới quê ông. Con sông Đáy ấy rất gần gũi với người Hà Tây cũ chúng tôi và bây giờ là quê chung mang tên Hà Nội. Sự thân thuộc ấy đến mức nhiều người yêu văn thơ khi đi qua vùng bãi mía, nương dâu của sông Đáy dù ở quãng nào nhất là những vùng đất thuộc huyện Quốc Oai, không thể không nhớ tới những câu thơ của ông trong Đôi mắt người Sơn Tây:

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khuắt thổi đêm trăng.”

Đoạn trích thơ trên đã “có chuyện”. Tôi được một nhà thơ nhắc nhở về chuyện trích dẫn sai thơ của nhà thơ Quang Dũng. Sau đó có những người yêu thơ cũng nói với tôi về chuyện này.

Một sự quan tâm hết sức lý thú của người yêu thơ với bài thơ viết về đôi mắt giàu thân phận, một đôi mắt rất con người của một vùng đất cụ thể có tên là Sơn Tây để thành Đôi mắt người Sơn Tây sau được đổi thành Mắt người Sơn Tây. Tôi bị “phê bình” là người thơ xứ Đoài mà trích dẫn nhầm cả những câu thơ hay về xứ Đoài của thi sĩ Quang Dũng.

Cụ thể như sau:

Đoạn tôi trích thơ trong bài báo là “Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng”. Theo người góp ý đúng ra phải là: “Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng”. Và tiếp theo là câu, tôi trích thơ là “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc”, theo người góp ý đúng ra phải là “Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc”. Bị người đọc nhắc nhở tôi mới giật mình nhớ ra là khi viết bài báo này và trích những câu thơ hay về Sơn Tây của nhà thơ Quang Dũng, “cậy” mình cũng là người xứ Đoài và yêu thơ ông nên cứ nhớ gì ghi nấy chứ không soi vào văn bản nên mới bị như vậy.

Giận mình về tính chủ quan, tôi vội lên mạng dò hỏi và tìm sách đọc xem cái phần đúng sai của mình như thế nào về việc trích dẫn bốn câu thơ nổi tiếng kia của nhà thơ Quang Dũng. Tôi đã tìm về các văn bản gần như gốc của bài thơ này của hai nhà thơ tri âm tri kỷ của nhà thơ Quang Dũng, đó là nhà thơ Trần Lê Văn và nhà thơ Ngô Quân Miện. Văn bản của nhà thơ Trần Lê Văn tôi tìm được từ cuốn Thơ hay có lời bình - 100 bài của nhiều tác giả do nhà thơ Vân Long tuyển chọn, Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành đầu năm 2000. Và của nhà thơ Ngô Quân Miện là trong tuyển tập Xứ Đoài thơ (Nhà thơ Ngô Quân Miện chọn thơ) do Hội Văn học Nghệ thuât Hà Tây ấn hành năm 1994. Trong hai tập sách này đều đã chọn in toàn bộ Mắt người Sơn Tây.

Từ hai văn bản tin cẩn ấy đối chiếu ra thì so với lời phê của người đọc tôi chỉ sai có một nửa. Đó là câu “Về núi Sài Sơn…”, tôi lại ghi là “Lên núi Sài Sơn…”. Còn câu “…Chậm nguồn qua Phủ Quốc” thì tôi đúng như hai văn bản trên và nhiều văn bản khác nữa tôi đã được đọc. Dáng chảy thật của Sông Đáy cũng cho ta cảm quan vậy khi nó ở trong địa phận Quốc Oai. Bờ sông thì vẫn địa dư ấy nhưng dòng nước thì trôi về xuôi và ra biển cho dù nó chảy chậm vì đã có đập Đáy ngăn nước ở phía trên. Như vậy sông Đáy chỉ có thể “chậm nguồn qua Phủ Quốc” chứ không thể “chậm nguồn quanh Phủ Quốc” được. Nếu chảy quanh thì hẳn là con sông chảy vòng rồi mà điều này là không có thực.

Chính nhà thơ Trần Lê Văn trong lời bình về bài thơ Mắt người Sơn Tây cũng đã viết: “Nghĩ đến ngày chấm dứt chiến tranh, anh hình dung ra cảnh hân hoan. “Khúc hoàn ca” hào hùng tuyệt đẹp nhưng cũng “rớm lệ”, những giọt lệ của niềm vui tái ngộ. Anh cũng hình dung cảnh thanh bình sẽ tới của xứ Đoài với đồng lúa vàng dưới núi Sài Sơn, với sông Đáy ung dung chảy qua Phủ Quốc và đêm trăng trầm bổng tiếng sáo diều… (sách đã dẫn). Còn câu tôi trích sai thì đúng là gặp nhiều sách in “Về núi Sài Sơn…”

Tôi tìm đọc thêm nhưng vẫn chưa hề gặp một từ nào là lên núi cả. Tôi nhớ có một lần nào đó lâu rồi khi còn công tác trong Sở Văn hoá - Thông tin Hà Tây nhân buổi đàm đạo văn thơ chung có nhắc tới bài thơ Mắt người Sơn Tây của nhà thơ Quang Dũng mọi người sôi nổi bàn tới câu thơ “Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng” và luận ra phải là “Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng” mới đúng.

Tôi cũng ngẫm ngợi và nghĩ rằng chỉ có “leo lên mới ngó xuống” và cảm thấy cách luận ấy là có lý và định tâm lúc nào đó gặp nhà thơ Quang Dũng hỏi cho ra nhẽ nhưng không có dịp và ấn tượng về chữ lên núi đó đã theo tôi mãi về sau để dẫn đến sự “trích sai” này. Tôi nghĩ như vậy bởi hai người bạn thân của nhà thơ Quang Dũng là nhà thơ Trần Lê Văn và nhà thơ Ngô Quân Miện khi tuyển chọn Mắt người Sơn Tây cũng đã dùng câu “về núi” chứ không “lên núi” theo như chủ quan tôi nghĩ…

Nhưng chưa phải đã hết về dị bản trong một số câu chữ khác của bài thơ nổi tiếng này. Ngay câu thơ ở đầu của bài thơ Mắt người Sơn Tây thì văn bản trong bài bình thơ của nhà thơ Trần Lê Văn viết:

Em ở thành Sơn chạy giặc về
Trong tuyển tập Xứ Đoài thơ do nhà thơ Ngô Quân Miện chọn thơ lại in là:
Em mới thành Sơn chạy giặc về
Và còn tiếp.

Bản của nhà thơ Trần Lê Văn in:
Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
Khúc hoàn ca rớm lệ
Trong Xứ Đoài Thơ do nhà thơ Ngô Quân Miện chọn thơ thì câu thơ thứ tư có khác một từ. Đó là:
Khúc hoan ca rớm lệ
Tuyển tập Thơ Hà Tây thế kỷ XX do Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tây in năm 1997 và cả bản bình thơ của nhà thơ Trần Lê Văn nữa trong bài thơ Mắt người Sơn Tây đều in:
Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Còn Xứ Đoài thơ lại in:
Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Trong Tuyển tập thơ Quê hương của nhiều tác giả do Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2001 về bài Mắt người Sơn Tây có in câu thơ:
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Và:
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Thì trong Thơ Hà Tây thế kỷ XX lại in:
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Và:
Đôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Trong cuộc tìm kiếm và đọc Mắt người Sơn Tây này tôi còn bắt gặp những dị bản khác nữa in trên mạng:

Như:
Bao giờ trở lại làng Bương Cấn
Hoặc:
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Và:
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Thành:
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Bản thân nhà thơ Quang Dũng theo nhà thơ Trần Lê Văn cho biết thì ông cũng đã từng sửa chữa bài thơ này của mình. Tỷ như mới đầu bài thơ có tên là Đôi mắt người Sơn Tây sau vì muốn tính ảo và tính thực của bài thơ mở ra hơn nhà thơ đã bỏ đi chữ đôi và giữ lại bốn từ là Mắt người Sơn Tây.

Riêng tôi thì lại muốn đọc đề bài thơ như cũ là Đôi mắt người Sơn Tây vì nó có cảm giác gần gụi và đằm thắm hơn. Cũng theo nhà thơ Trần Lê Văn, trong bài thơ có câu thơ gắn liền với cảm xúc của nhà thơ Quang Dũng về một đôi mắt thăm thẳm xanh có thật với gương mặt có pha chút hình dáng Tây Phương của người con gái ở phía non Đoài đã giúp cho thi sĩ có câu để đời là:
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Nhưng cũng có thời vì lo lắng nọ kia mà ông sửa câu này thành:
Mắt em như nước giếng thôn làng
Một câu thơ thứ cấp so với câu trên. Mắt em ví với nước giếng thôn làng làm sao có thể lung linh huyền diệu bằng cái dìu dịu buồn Tây Phương ấy được khi mà có thể chỉ là của nhà thơ Quang Dũng và những đứa con dứt ruột của Xứ Đoài mới nhận ra và thấu hiểu được cái vời vợi và sâu thẳm ấy của người thơ và nhân vật của câu thơ…

Lâu nay, Đôi mắt người Sơn Tây hay Mắt người Sơn Tây với hàm ý từ danh từ trở thành tính từ của cái đẹp. Tuy có từ nọ chữ kia đọc hoặc in khác đi nhưng hồn cốt của bài thơ vẫn nguyên vẹn trong tình yêu của người yêu thơ với bài thơ. Tình yêu ấy là tình yêu nằm lòng và thường được cất lên bằng cảm xúc riêng mỗi người.

Những sự có thể khác nhau ấy trong đôi ba từ ngữ của bài thơ tôi nghĩ phải chăng đó là điều thú vị và niềm hạnh phúc của những tác phẩm giàu tín đồ. Bởi bài thơ Mắt người Sơn Tây đã được rất nhiều người đọc và thuộc. Trong cái thuộc lòng ấy không tránh được cái cảm cái nhớ theo nỗi yêu của mỗi người mà dẫn đến những dị bản chữ nghĩa đáng yêu này!

Bạn học của tôi là nhà văn Nguyễn Kế Nghiệp lúc sinh thời đã thuộc lòng Mắt người Sơn Tây của nhà thơ Quang Dũng. Anh còn thuộc cả bài hát mang tên bài thơ này do nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc nữa.

Mỗi lần bạn bè Sơn Tây gặp nhau nếu có Nguyễn Kế Nghiệp thường thường là chúng tôi yêu cầu anh đọc bài thơ này cho mọi người cùng thưởng thức. Như chạm phải mạch giếng trong vắt của những vùng đồi quê kiểng, mắt chàng trai Sơn Tây ấy như mê đi và anh cất giọng:
Em mới thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?

Tôi có biết chuyện một người ngày xưa đóng quân ở Sơn Tây. Chuyện rằng nhiều đồng ngũ của anh đã là con rể xứ Đoài, riêng anh chỉ được yêu mà không được lấy nên sinh buồn biết bao nhiêu ngày. Đến lúc chuyển quân đi chiến đấu, xa cái vùng quê dưới chân non Tản mỗi lần nhớ về người con gái mình yêu nơi ấy anh thường ngân nga những câu thơ này của nhà thơ Quang Dũng:
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Em có bao giờ em nhớ ta…
Tương truyền ở thành phố Sài Gòn ngày trước lưu hành rất rộng rãi bài thơ này. Nó quen thuộc và kỳ diệu đến mức những cô gái có đôi mắt đẹp của Sài Thành người ta thường gọi đó là Đôi mắt người Sơn Tây và nhà thơ Quang Dũng với thi phẩm này của mình cùng thi phẩm Tây Tiến… đã trở thành một thần tượng thơ của những người yêu văn học.

Với tôi lần đầu tiên khi vào miền Nam có một kỷ niệm khó quên với một người con gái miền Tây Nam Bộ. Em có một tiếng “dạ” làm người nghe dịu lòng vô cùng và một đôi mắt, đôi mắt thăm thẳm xanh trong im lặng mà chứa biết bao lời khiến tôi nhiều lần muốn ướm hỏi về cội nguồn của sự lay láy ấy trong cái nhìn rằng người sinh ra em có phải là người có quê gốc ở đất Bắc, sinh ở Xứ Đoài? Vân vi hoài điều ấy vì sợ rằng mình sẽ thành kẻ ngộ nhận nhưng rồi cũng có một lần không kìm được lòng mình tôi đã ý tứ thăm dò…

Và lần ấy em đã nói với tôi:

- Dạ, ba em bộ đội tập kết, má em người núi Tản sông Đà đó anh!

Kỳ lạ về bài thơ và đôi mắt ấy - Đôi mắt người Sơn Tây!


Phan Quế

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
25.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Những điều ít được biết về bài hát “Đôi mắt người Sơn Tây”

Bài thơ được Quang Dũng viết tặng cho người tình của ông, một kỹ nữ xinh đẹp. Chiến cuộc nổ ra, nàng lìa thành vào vùng kháng chiến, chàng thành quân nhân lên đường chống giặc như bao trai tráng thời tao loạn.

“Thương nhớ ơ hờ... thương nhớ ai. Sông xa từng lớp lớp mưa dài, mắt em... ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh. Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai…”

Hầu như ai cũng biết đây là sáng tác được Phạm Đình Chương phổ nhạc dựa trên lời thơ của Quang Dũng. Nhưng không mấy người yêu nhạc xưa có thể biết được những câu mở đầu trong bài hát trên là lời bài thơ Đôi bờ của thi nhân Quang Dũng.

Tôi dùng chữ thi nhân thay vì thi sĩ để gọi Quang Dũng giống như những sách biên khảo khác. Xưa nay, người ta gọi ông là thi nhân, bởi lẽ chất thơ trong Quang Dũng toát lên từ những việc đời thường chứ không riêng gì trong thi ca. Con người tài hoa ấy từng là chỉ huy một đơn vị trong kháng chiến chống Pháp và là nhà thơ trứ danh thời đó.

Bối cảnh bài thơ khoảng năm 1948, khi mà sự ly hương, tiêu thổ, hoang tàn vì cuộc chiến đã khiến cho “người em” phải lìa bỏ thành Sơn Tây. Cuộc lửa binh “Từ độ thu về hoang bóng giặc, điêu tàn thôi lại nối điêu tàn” khiến nhiều cuộc chia ly diễn ra để tác giả phải thốt lên: “Mẹ tôi em có gặp đâu không. Những xác già nua ngập cánh đồng”, “Tôi cũng có một thằng em nhỏ. Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông”... cho đến đất đá cũng phải “nhiều ngấn lệ” đau thương.

Quang Dũng viết Đôi mắt người Sơn Tây để tặng cho người tình của ông, một kỹ nữ trước kháng chiến tên là Nhật, cô còn có mỹ danh khác là Akimi. Vào thời chưa có chiến tranh, khi những giá trị xưa cũ vẫn còn, thi nhân, nhạc sĩ có tình nhân như thế là chuyện thường.

Chiến cuộc nổ ra, nàng lìa thành vào vùng kháng chiến, trở thành một cô bán cafe như những bài hát trứ danh Cô hàng cafe, Cô hàng nước... Còn chàng thành quân nhân lên đường chống giặc như bao trai tráng thời tao loạn.

“Tôi từ chinh chiến đã ra đi. Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì. Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc. Non nước u hoài, non nước hao gầy, ngày chia tay. Em vì chinh chiến thiếu quê hương. Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn. Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm. Em có bao giờ, em có bao giờ, em thương nhớ... thương?” được.

Sông Đáy lững lờ chất chứa nỗi lòng quanh Phủ Quốc. Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn trong tang thương, mây trắng xứ Đoài nay chỉ còn trong hoài niệm, chỉ là một thứ mây Tần gợi cho ta nhớ về cố hương xa vời.

Quang Dũng quê ở Sơn Tây, quê ngoại của Hoài Bắc Phạm Đình Chương cũng ở Sơn Tây. Vì thế, hai tâm hồn nghệ sĩ lớn đã tìm thấy sự đồng điệu trong thơ, nhạc. Bài hát Đôi mắt người Sơn Tây được Phạm Đình Chương phổ nhạc vào mùa thu năm 1970 tại phòng trà Đêm Màu Hồng (nổi tiếng ở Sài Gòn thời đó).

Đây là phòng trà do Phạm Đình Chương lập nên, nơi ông cùng ban nhạc Thăng Long huyền thoại trình diễn văn nghệ. Bài hát trên được ông phổ nhạc trong giai đoạn thứ hai của sự nghiệp âm nhạc. Cuộc chia tay với nữ tài danh Khánh Ngọc đã làm ông trở thành một con người khác, u uất hơn, tâm trạng hơn...

Trước đây, khi mới khởi nghiệp, nhạc Phạm Đình Chương trong sáng bao nhiêu, ca từ đẹp đẽ yêu đời bấy nhiêu thì kể từ sau cuộc hôn nhân tan vỡ, nhạc của ông trầm tư, ca từ u uất lạ thường. Những tuyệt phẩm để đời trong giai đoạn này được ông sáng tác có thể kể như: Nửa hồn thương đau, Người đi qua đời tôi, Đêm màu hồng, Khi cuộc tình đã chết, Dạ tâm khúc... và Đôi mắt người Sơn Tây bất hủ.

Giai thoại kể rằng, có những đêm dưới ánh đèn màu mê hoặc của phòng trà Đêm màu hồng, trong cái đặc quánh của khói thuốc và hơi rượu mạnh, khi mà ngoài xa kia vẫn văng vẳng tiếng súng, tiếng đại bác... Thể theo lời yêu cầu của khách mộ điệu, Hoài Bắc (nghệ danh của Phạm Đình Chương) tay cầm ly rượu cất giọng ca u hoài trứ danh thì khán thính giả đều nín lặng trong tiếng nhạc hay tiếng lòng u uất của chính tác giả. Đó là những phút giây bất hủ của nghệ sĩ tài hoa, làm thành những giai thoại để đời của Hoài Bắc.

Bài thơ vốn dĩ đã hay lại được đặt trong khuôn nhạc tuyệt diệu của bậc thầy phù thuỷ phổ thơ trở thành tuyệt tác. Chỉ có những danh ca vào hàng tuyệt đỉnh với nội lực thượng thừa mới có thể trình bày bản này như Thái Thanh, Duy Trác, Tuấn Ngọc và chính Hoài Bắc.

Hãy nhìn vào nhạc phổ mới thấy câu “em có bao giờ, em có bao giờ, em thương nhớ… thương” được Phạm Đình Chương đặt nhạc tuyệt vời thế nào. Đây là câu khó hát nhất của ca khúc này, ngoài những danh ca kể trên chưa ai có thể hát thành công.

Phạm Đình Chương đã sáng tạo lời nhạc: “Em hãy cùng ta mơ, mơ một ngày đất mẹ, ngày bóng dáng quê hương đường hoa khô ráo lệ…” thay cho lời thơ gốc: “Tôi gửi niềm nhớ thương, em mang dùm tôi nhé. Ngày trở lại quê hương, khúc hoàn ca rớm lệ…” Chiến cuộc dù có đau thương thì người nghệ sĩ vẫn hoài mong về một ngày thanh bình, ngày đó bóng dáng quê hương sẽ “khô ráo lệ” u hoài.

Thế rồi, một ngày chưa hết chiến tranh nhưng người tình Akimi của ông rời bỏ vùng kháng chiến để “dinh tê” về thành, bỏ lại nỗi u hoài cho người thi sĩ. “Dinh tê” vốn đọc từ chữ “Rentrer” (quay trở về) trong tiếng Pháp, dùng để chỉ người rời khỏi vùng kháng chiến về thành, tức vùng kiểm soát của Pháp.

“Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự, kinh thành em có nhớ ta chăng? Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến, hiu hắt chiều sông lạnh đất Tề…” (Đôi bờ). Quang Dũng buồn vì giờ đây hai đàng đã cách ngăn, nàng ở vùng Tề, còn chàng ở vùng kháng chiến. Tôi đoán người đẹp ấy có nét tựa như con gái xứ Phù Tang. Vì thế nét đẹp đó mãi mãi là “nàng thơ” trong các tác phẩm của Quang Dũng.

Mặc dù lời bài thơ Đôi bờ chỉ góp mặt trong nhạc phẩm Đôi mắt người Sơn Tây chỉ một khổ thơ đầu, nhưng để dẫn giải xung quanh “nàng thơ” của Quang Dũng thiết tưởng nêu lên những câu chuyện diễm tình kia kể cũng không thừa. Chỉ cách biệt nhau có một vùng giữa “thành” và “khu” mà như cách biệt nhau cả đôi bờ.

Rồi nàng vào Nam, lần này là cách biệt thật giữa hai đàng đất nước nhưng như xa cách cả đất trời. Để rồi đêm đêm chàng thi sĩ chỉ còn mơ bóng Akimi hiện về trong đáy cốc rượu để nói cười, để tâm sự cùng chàng. Thật hay là mộng? Mộng hay là thật? Chỉ thi sĩ biết mà thôi.

Mùa thu 1970, khi cuộc chiến đã đi vào những khúc bi thương nhất, người ta chỉ có thể hoài niệm về những vùng đất xa xưa ở xứ Bắc, những chuyện tình của ngày thơ mộng cũ, nhưng lời ru êm xưa qua trí tưởng. Hoài Bắc cũng mộng tưởng như vậy. Lần lượt những xứ Đoài mây trắng, những Sông Đáy, những Phủ Quốc chầm chậm trôi qua trong trí tưởng, đem lại những giây phút êm đềm ngắn ngủi về một thời thanh bình quá vãng.

“Bao giờ tôi gặp em lần nữa, ngày ấy thanh bình chắc nở hoa. Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ, còn có bao giờ em nhớ ta…” Đoạn ngâm này của Hoài Bắc mới tuyệt diệu làm sao. Đó là điểm nhấn trong suốt bản nhạc của ông. Thì ra, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù tang thương binh lửa, dù đớn đau bởi đời sống nội tâm... người nghệ sĩ cũng để dành một chỗ trang trọng, êm ái, bí mật và kín đáo cho nàng thơ của mình.

Phạm Đình Chương tự hỏi, sau những mất mát đau thương của chiến cuộc, rồi một ngày thanh bình, ngày mà những sắc hoa sẽ lại nở, liệu nàng có nhớ đến ta chăng? Đó cũng chính là lời tâm tình của thi nhân Quang Dũng.

Phụ nữ muôn đời là niềm cảm hứng bất tận của thi nhân, của nhạc sĩ. Cho dù đôi lần, người phụ nữ là liều độc dược làm tan nát cả trái tim nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và “nàng thơ” cũng làm Quang Dũng xót xa khi nàng bỏ về thành và vào Nam.

Bên cạnh đó, chính người phụ nữ cũng là “thần dược” xoa dịu những vết thương đang nhức nhối. Độc dược và tiên dược ấy đôi khi tách biệt nhau, đôi khi hoà lẫn nhau để làm thành một thứ xúc tác thần kỳ tạo ra những tuyệt phẩm để đời.

Ở đoạn cuối của bài hát có đoạn: “Đôi mắt người Sơn Tây, đôi mắt người Sơn Tây, buồn viễn xứ khôn khuây…” Điệp từ “đôi mắt người Sơn Tây” được lặp lại hai lần với một nỗi u hoài man mác. Nhạc lúc này được cất lên cao vút, và người ca sĩ cũng xuất thần, xuất hồn theo bài hát.

Bài thơ ra đời vào thời kháng Pháp, bài nhạc được hoàn thành khoảng hơn hai mươi năm sau đó (năm 1970) và xuất bản vào năm 1972. Tác phẩm được trình bày hết sức trang nhã và đẹp mắt với nét chữ bay bướm.

Giờ đây, nhạc sĩ và thi nhân ắt hẳn đã tương ngộ nhau nơi miền miên viễn, có chăng còn lại cho đời là tuyệt phẩm Đôi mắt người Sơn Tây mà thôi...


Nhạc Tương Như

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Thành cổ Sơn Tây

*
Thành cổ Sơn Tây một chiều tôi ghé lại
U ẩn đi tìm...
     Đôi mắt của người xưa...
**
Khói lửa binh đao đầy trong trận mạc,
Xuôi ngược lên non,
     ...lại xuống ngàn,
Mắt lệ lưng tròng tìm người lạc,
Người chết trôi sông,
     ...kẻ dọc đường,
Quảy gánh trên vai,địu trên lưng,
Một bên tay nải , một bên tình,
  Bên thì đứa trẻ , bên sông núi,
      Gánh cả tương lai , nặng trĩu lòng.
***
Núi Sài Sơn thuỷ đình soi bóng nước,
Nhật nguyệt kim kiều ,nối những niềm tin,
Tây Phương đội nếp lên chùa lễ,
Gót sen nhẹ bước , mắt ai hiền?
Mắt ai soi sáng  A...La Hán,
Có phải anh về trong đêm nay?
Khuyến thiện ác trừng... hồn tử sỹ,
Trống vọng oai linh,
          Vọng khắp bốn phương trời,
****
Thành Tây mắt ngọc đùa mây trắng
Má đỏ hồng hoa...Bõ công chờ,
Nép xanh áo lính cùng nhau bước,
Rạng ngời hy vọng ở ngày mai.
*****
Đứa trẻ ngày nay đã lục tuần,
Bảo ban con cháu chuyện Thành Tây
Ngày nay đã bắt đầu từ bao năm trước...
Sử tích này ...Truyền lại đến ngàn sau.
               Tuấn Quỳnh 2008

124.25
Trả lời
Ảnh đại diện

Đôi mắt người Sơn Tây

Trong bản xuất hiện trên báo Văn Nghệ năm 1949, tôi còn giữ được, câu 15 đoạn 4 là:
Tôi cũng có thằng con bé nhỏ
chứ không phải:
Tôi cũng có thằng em bé dại
trong bản của ông Trần Lê Văn, một bạn thân của tác giả cũng ghi như vậy.

53.20
Trả lời
Ảnh đại diện

Đôi mắt người Sơn Tây

theo tập thơ "Đôi mwts người Sơn Tây" nxv Văn Học 9/1995 khổ 6x9 trang 27,28,29 thì:
       ...Mẹ tôi em có gặp đâu không
          Những xác già nua ngập cánh đồng
          Tôi cũng có thằng con bé dại (1)
          Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông.
(1) thằng con bé dại này là kết quả của mối tình đầy huyền thoại của chàng lãng tử Bùi Đình Diệm với NGƯỜI ĐẸP YÊN BÁI,đây là con trai đầu lòng của anh, tên là Bùi Quang Dũng,mà Thi sĩ lấy tên con trai làm bút danh lưu danh với đời...

54.20
Trả lời
Ảnh đại diện

Về tiểu sử Quang Dũng

Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu (tức Diệm)sinh năm 1921 tại làng Phượng trì,tổng Đại Phùng,huyện Đan Phượng(Hà Tây).Quang Dũng là lấy tên con trai làm bút danh(năm 1952 viết tập ký sự"Đoàn võ trang tuyên truyền Việt-Lào",ký tên là  Trần Quang Dũng.Cụ thân sinh là một chức dịch,mẹ là người phụ nữ đảm ven Đô(làm ruộng và buôn bán nhỏ).Gia đình khá giả nên Quang Dũng gửi ra Hà Nội học văn, học võ,học vẽ,học đàn...để sau này,trong lĩng vực nào anh cũng có những thành tựu đáng kể,trong đó kiệt xuất phải nói là thơ.
Từ sau ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945,Quang Dũng được cử làm Phái viên Quân Sự Bắc Bộ,làm công việc cất dấu máy móc quân sự,đi các địa phươbg tìm mua súng đạn,giành chiếc máy bay Nhật ở Ba Vì.Rồi với tư cách Chính trị viên phó Đại đội Tổng vệ binh Cảnh vệ Khu 2...khoảng cuối năm 1947 anh gia nhập đoàn quân Tây tiến.Sau một thời gian chiến đáu ở Lào trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 51 .Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948,rồi được chuyển sang đơn vị khác.Rời xa đơn vị cũ,chưa bao lâu,ngồi ở Phù Lưu Chanh(Kim Bảng-Hà Nam)thi sĩ bồi hồi viết "nhớ Tây tiến",bài thơ xuất thần viết liền một mạch trong một đêm đẻ trở thành kiệt tác thơ Việt Nam thế kỷ xx.
Trước Tây tiến ,Quang Dũng đã có "đôi mắt người Sơn Tây" rất nổi tiếng với "Vầng trán em mang trời quê hương/mắt em dìu dịu buồn tây phương/Tôi nhớ xứ Đoài mây trăng lắm...".Về Nhạc thì có "Ba Vì mờ cao" với "từ xa thương nhớ Ba Vì ơi !/thời gian như muồn phai bóng người/giang hôduwngf bước/nhớ nhung Ba Vì ơi ! Sau Tây tiến còn là "Những lang đi qua","vườn ổi","em mãi là tuổi 20","mây đầu ô",,,cũng như các bài buổi đầu làm thơ"Chiêu Quân","cố Quận" đều là nhữn bài thơ hay riêng một chất thơ Quang Dũng.
Nếu ví Hoang Cầm (thơ) là tinh hoa của hồn quê Quan họ thì Quang Dũng là "bạch vân thiên tải không du du" là hồn thơ của mây trắng xứ Đoài với "Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc?sáo diều khuya khpawts thổi đêm trăng" cùng "mây ở đầu ô mây lang thang..."
Lang thang lãng tử thích ngao du sơn thuỷ đi đó đi đây là kiếp đoạn trường của đời nghệ sĩ...cái tinh thần thượng võ ,cái khí,cái thần của người thơ ấy được đúc nên từ lòng yêu que hương xứ sở-yêu đời,đời đẹp như thơ,như đời người chiến sĩ chỉ biết hi sinh,chỉ biết phụng sự lý tưởng và đất nước mà nhà thơ đã đi trọn cuộc đời.
Nhà thơ Quang Dũng từ trần ở Hà Nội ngày 14-10-1988.Ông đã được Giải thưởng Nhà Nước về Văn học.Bài thơ Tây tiến đã được chọn một đoạn khắc vào Đài tưởng niệm các Liệt sĩ Tây tiến ở Châu Trang,xã Thượng Cốc,huyện Lạc Sơn (Hoà Bình)ngày 20-12-1990,và tượng đồng bán thân của Vệ Quốc Quân Quang Dũng được đặt tại Trường Tiểu học quê nhà là một minh chứng về sự tôn vinh của Nhà Nước-Nhân dân đối với Nhà thơ yêu quí của chúng ta.
                             Hà Nội 8/2005 Nguyễn Khôi

44.25
Trả lời
Ảnh đại diện

Nhan đề

Trong sách "Tuyển tập Quang Dũng" do Trần Lê Văn sưu tuyển (NXB Văn Học, Hà Nội, 2000), nhan đề bài thơ này là "Mắt người Sơn Tây", không có "Đôi" nhé.

43.75
Trả lời
Ảnh đại diện

Bút tích của QD năm 1949 đây

http://i1058.photobucket....phuongcacanh/IMG_2837.jpg

44.50
Trả lời