Buổi giời đất xây nên thềm thái,
Trên thánh quân dưới lại hiền thần.
Tao phùng long hổ phong vân,
Ngoài biên trong nước kinh luân có người.
Hoàng Trần thủa thay giời ngự thế,
Vững âu vàng kế kế thừa thừa.
Võ công qua vượt nghìn xưa,
Sông Đằng tăm ngạc quét trừ sạch trong.
Thiên tử mới khoan lòng cân thực,
Thượng phụ vừa nghỉ sức ưng dương.
Cơ giời sâu sắc khôn lường,
Lại gây ngoại hoạn, để cường quân tâm.
Khói lang chợt âm thầm ngoài ải,
Chiêm, Lào quen phong mại thói xưa.
Ấy ai chém tướng giật cờ?
Nối thơm thượng phụ bấy giờ chưa ai.
Đời có loạn sinh tài dẹp loạn,
Sá chi bàn Lý Quảng, Á Phu.
Hải Dương này đất Đường Phù,
Địa hình ngũ mã, ngũ phù tú chung.
Mạch Văn Khúc hồi long cố tổ,
Cảnh hữu sa bạch hổ chiển kỳ.
Đất thiêng sinh bậc anh kỳ,
Kén tài thượng tướng giời kia đã đành.
Gánh non sông, thu hoành nhất sáo,
Thét hùm beo, khí tảo thiên quân.
Tài cao ngụ bốn câu thần,
Tôn, Ngô, Lý, Đỗ võ văn gồm tài.
Mắt sô tốt biết ai quốc sĩ,
Mũi kim qua chạm vế Tô công.
Lặng ngồi chẳng chút động dong,
Mặc ai xe ngựa ruổi rong trên đường.
Đức thượng phụ có gương Đức Tháo,
Coi tướng người dong mạo hiên ngang.
Hỏi ra tài học phi thường,
Đã thông kinh sử, lại thường lược thao.
Dinh Vạn Kiếp áo trao Hàn Tử,
Lối Thượng Hồng xe ngựa Tề Khương.
Quán sanh êm khúc loan hoàng,
Trong quân nương tử chủ trương có người.
Lượng sương hải yêu tài bảo chướng,
Cửa tử vân kém tướng can thành.
Tự khi đánh phá Nguyên binh,
Lĩnh quân Dực Thánh tuần hành nam cương.
Y kỉ luật, cờ giương trống gióng,
Chỉnh uy dung, đai rộng cừu khinh.
Tràng An thiên tử tri danh,
Trao tướng ấn, tới biên thành đổng binh.
Hộ thánh giá thân chinh Lao khấu,
Cứu thân vương phá thấu trùng vi.
Trúc can lẫm liệt ra uy,
Dư muôn tuần tượng xô về một tay.
Cờ đại tướng tuyết bay sao ruổi,
Sông Tràng Long kình nổi sóng êm.
Tiệp thư hai thứ dâng lên,
Cố cương đem lại thốn kim sơn hà.
Chiếu ngọc bệ khen tay kham bát,
Trải ba triều gánh vác gian lao.
Năm lần phù ấn vinh bao,
Tiến phong Điện suý dự vào sủng chương.


Phạm điện suý thượng tướng quân tức Phạm Ngũ Lão.

Đây là một trong nhiều bài thơ trong tiểu thuyết Hưng Đạo Vương của Phan Kế Bính, in lần đầu năm 1912, nhiều khả năng do Phan Kế Bính tự sáng tác.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]