太公祠(進退韻)

百尺絲竿拂釣磯,
風雲遭際有為期。
適周果慰先君望,
凉武全憑大老歸。
敬怠一書千古訓,
略韜正印後人師。
營丘渺渺不知處,
故里祠前掛落暉。

 

Thái Công từ (Tiến thoái vận)

Bách xích ti can phất điếu ky,
Phong vân tao tế hữu vi kỳ.
Thích Chu quả uỷ tiên quân vọng,
Lượng Vũ toàn bằng đại lão quy.
Kính đãi nhất thư thiên cổ huấn,
Lược thao chính ấn hậu nhân si (sư).
Doanh khâu diểu diểu bất tri xứ,
Cố lý từ tiền quải lạc huy.

 

Dịch nghĩa

Buông cần câu dây dài trăm thước bên lèn đá,
Cơ hội vua tôi gặp gỡ như đã có hẹn.
Đến với nhà Chu, quả đã thoả lòng trông đợi của tiên vương,
Giúp vua Vũ, hoàn toàn nhờ vào bậc đại hiền trở về.
Kính cẩn và lười nhác là bộ sách giáo huấn cho muôn đời,
Kế sách mưu lược của ông, chính đã ấn định ông là bậc thày cho đời sau.
Đống gò nơi doanh trại xưa, mờ mịt không rõ ở nơi nào,
Trước đền thờ nơi quê cũ, bảng lảng bóng chiều tà.


Nguyên dẫn: “Tại phủ bắc ngũ lý, bàng hữu Thái Công cố lý bi” 在府北五里,旁有太公故里碑 (Cách phủ thành 5 dặm về phía bắc, bên đường có tấm bia đề “Làng cũ của Thái Công”).

Thái Công tức Thái Công Vọng, người đời Chu, họ Lã, tên Thượng. Tương truyền câu cá bên sông Vị, Chu Văn Vương đi săn qua gặp cho là người hiền, nói chuyện rất vui vẻ. Văn Vương mời cùng ngồi xe đưa về; nói: “Ngô Thái Công, vọng tử cửu hĩ!” (Ông Thái Công ơi! Tôi mong ông đã lâu lắm rồi!” Nhân đó gọi là Thái Công Vọng, lập làm Thái sư. Khi Vũ Vương lên ngôi, tôn là Sư thượng phụ. Ông từng phò tá Vũ Vương diệt nhà Ân. Khi nhà Chu mới lên phong cho đất Tề, làm Thuỷ tổ nước Tề, tục gọi là Khương Thái Công.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]