三閭大夫祠其一

千年去矣好修人,
孤廟荒涼倚夕曛。
莫說九洲非可相,
但知同姓不忘君。
沅湘流水空長往,
杜若餘香宛在聞。
獨把離騷倍惆悵,
憐才未忍詠遺文。

 

Tam Lư đại phu từ kỳ 1

Thiên niên khứ hĩ hảo tu nhân,
Cô miếu hoang lương ỷ tịch huân.
Mạc thuyết cửu châu phi khả tướng,
Đãn tri đồng tính bất vong quân.
Nguyên Tương lưu thuỷ không trường vãng,
Đỗ Nhược dư hương uyển tại văn.
Độc bả “Ly tao” bội trù trướng,
Lân tài vị nhẫn vịnh di văn.

 

Dịch nghĩa

Một con người tận thiện, đã mất qua ngàn năm rồi,
Lạnh lẽo hoang tàn, ngôi miếu trơ trọi nương ánh nắng chiều.
Đừng nói cửu châu không có người làm được thừa tướng,
Chỉ biết người cùng họ chẳng quên ông.
Nước dòng Nguyên Tương vẫn chảy đi mãi,
Hương thơm bên bãi Đỗ Nhược như còn phảng phất.
Một mình nâng thiên “Ly tao” trong tay, càng bội phần buồn bã,
Thương người tài, không nỡ ngâm bài thơ ông để lại.


Nguyên chú: “Tại Tương Âm huyện giang ngạn” 在湘陰縣江岸 (Đền thờ bên sông huyện Tương Âm [tỉnh Hồ Nam]”. Tam Lư đại phu là tên một chức quan nước Sở, tương đương chức Tể tướng. Khuất Nguyên từng giữ chức này thời Chiến quốc. Lúc đầu ông được vua Sở Hoài Vương tin dùng, sau bị gièm pha nên bị đày đi Giang Nam, nhưng lòng ông vẫn nhớ vua, nhớ nước và đau xót thấy nước Sở đang có nguy cơ bị tiêu vong. Tâm tình ấy ông gửi gắm vào danh tác bất hủ Sở từ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]