桂林十二詠其九-越王城(落鴈格)

何地宮城印綠苔,
相傳越代舊遺來。
垣墉留拱藩臺壯,
基址教成試院開。
秀嶺雲霞空縹缈,
月池煙水自縈迴。
推移人事還如此,
浮世悠悠一悵懷。

 

Quế Lâm thập nhị vịnh kỳ 09 - Việt Vương thành (Lạc nhạn cách)

Hà địa cung thành ấn lục đài,
Tương truyền Việt đại cựu di lai.
Viên dung lưu củng phiên đài tráng,
Cơ chỉ giao thành thí viện khai.
Tú Lĩnh vân hà không phiếu diểu,
Nguyệt Trì yên thuỷ tự oanh hồi.
Suy di nhân sự hoàn như thử,
Phù thế du du nhất trướng hoài.

 

Dịch nghĩa

Thành quách cung thất ở nơi đâu, [chỉ thấy] in ngấn rêu xanh,
Tương truyền đó là di chỉ cũ của vua Việt Vương.
Tường thành còn lưu lại, bao quanh ngôi đài nơi phên dậu hùng tráng,
Nền cũ đã trở thành trường sở cho các khoa thi cử.
Trên đỉnh Độc Tú mây ráng thấp thoáng bay,
Nơi ao Bán Nguyệt khói sóng tự lượn quanh co.
Cuộc thế chuyển dời cũng như vậy,
Cuộc đời phù du, dằng dặc một nỗi buồn.


Nguyên dẫn: “Tỉnh thành nội phục hữu cổ thành, nội ngoại thế thạch kiên hảo. Tứ diện các nhất môn đình trì liệt thạch, đạo giai cấp nhiễu thạch doanh, uyển nhiên triều thị chi sở. Trung hữu Dộc Tú phong, phong hậu hữu Bán
Nguyệt trì. Kim cung điện di chỉ cấu kết viện vũ vi tỉnh thí chi sở. Tương truyền thị Việt Vương thành. Án: Ngô Việt Câu Tiễn sở cư đương tại Cối Kê, nhi Nam Việt vương Triệu Đà hiện hữu Phiên Ngung di chỉ, tích thử bất tri hà đại sở tác. Cô tòng tục dĩ cung ngâm vịnh nhĩ.” 省城內復有古城,內外砌石堅好,四面各一門庭墀列石,道階級繞石楹,宛然朝市之所。中有獨秀峰,峰有半月池。今宮殿遺址構結院宇為省試之所。相傳是越王城。按吳越句踐所居當在會稽,而南越王趙陀現有番禺遺址,蹟此不知何代所作。姑從俗以供吟詠耳。 (Trong tỉnh thành lại có toà thành cổ, trong ngoài xây đá vững chắc; bốn mặt đều có cửa, sân và thềm xếp đá; đường đi và bậc thềm cũng bao quanh bằng đá, đúng là nơi triều thị. Ở giữa có ngọn núi Độc Tú, sau núi có ao Bán Nguyệt. Nay chỗ di chỉ của cung điện đã bị xây cất nhà cửa làm chỗ thi cử của tỉnh. Tương truyền, đó là thành Việt Vương. Xét: Nơi ở của Câu Tiễn thời Ngô Việt là Cối Kê, nhưng Triệu Đà của nước Nam Việt hiện còn di chỉ ở phiên ngung; những dấu tích di chỉ này không rõ được xây dựng vào đời nào. Tạm theo lời truyền mà làm thơ ngâm vịnh.)

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]