漢桓侯廟

秋風官路半沙塵,
路上桓侯廟宇新。
異姓結成同死約,
平生要殺負心人。
難將勇力匡蛇運,
剩有英聲應虎臣。
分鼎乾坤終舜息,
故鄉洋濯永千春。

 

Hán Hoàn Hầu miếu

Thu phong quan lộ bán sa trần,
Lộ thượng Hoàn hầu miếu vũ tân.
Dị tính kết thành đồng tử ước,
Bình sinh yếu sát phụ tâm nhân.
Nan tương dũng lực khuông xà vận,
Thặng hữu anh thanh ứng hổ thần.
Phân đỉnh càn khôn chung thuấn tức,
Cố hương dương trạc vĩnh thiên xuân.

 

Dịch nghĩa

Gió thu thổi trên đường cái quan, nửa phần cát bụi,
Miếu thờ Hán Hoàn hầu trên đường, vẫn còn như mới.
Khác họ mà kết nghĩa anh em, thề nguyền cùng sống chết,
Thuở bình sinh chỉ cốt chém giết kẻ phụ lòng người.
Thật khó đem vũ lực khuông phò khi vận đã suy,
Chỉ còn lại được tiếng anh hùng, đúng với danh bậc bề tôi như hổ.
Cuộc phân chia trời đất kết thúc thật ngắn ngủi,
Chỉ có quê hương tươi đẹp là còn mãi mãi.


Nguyên chú: “Tại Trác Châu thành nam thập lý hựu duyên lộ hữu công cố lý bi, cập phong bi, mộ bi” 在涿州城南十里又沿路有公故里碑及封碑墓碑 (Miếu thờ Hán Hoàn hầu ở phía nam thành Trác Châu khoảng 10 dặm, bên đường có tấm bia ghi quê cũ của ông và bia sắc phong, bia mộ).

Hán Hoàn Hầu tức Trương Phi, tự Ích Đức, người Trác quận, Trác huyện (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), là một trong năm hổ tướng thời Tam Quốc. Ông cùng Lưu Bị, Quan Vũ kết nghĩa anh em, nguyện cùng sống chết, cùng mưu thu phục giang sơn nhà Hán. Khi Lưu Bị lấy được Ích Châu phong Trương Phi là Xa kị Tướng quân, lĩnh Tư lệ Hiệu uý, trấn thủ Lãng Trung. Năm 221, Trương Phi bị bộ tướng giết hại, mộ tại Lãng Trung, được truy tặng tên thuỵ là Hoàn Hầu; người đất Lãng kính trọng sự trung dũng của ông lập miếu thờ. Trương Phi có nhiều miếu thờ ở nhiều nơi, nhưng ngôi miếu mà Phan Huy Thực viết là ở Trác Châu, quê Trương Phi.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]