韩信講兵處有感

千里難關度劍門,
羅豪漢網入王孫。
登墻一遇簫何薦,
公晰終辭蒯徹言。
烹狗藏弓埋宿恨,
解衣推食失前恩。
燕郊寂寂講兵處,
草色蛩聲自曉昏。

 

Hàn Tín giảng binh xứ hữu cảm

Thiên lý nan quan độ kiếm môn,
La hào Hán võng nhập Vương Tôn.
Đăng tường nhất ngộ Tiêu Hà tiến,
Công tích chung từ Khoái Triệt ngôn.
Phanh cẩu tàng cung mai túc hận,
Giải y thôi thực thất tiền ân.
Yên giao tịch tịch giảng binh xứ,
Thảo sắc cùng thanh tự hiểu hôn.

 

Dịch nghĩa

Cửa ải xa xôi nghìn dặm khó nhọc, mới đo được tài cung kiếm,
Lưới của nhà Hán khắp hào kiệt, có được Vương Tôn.
Lên cao, gặp được Tiêu Hà tiến cử với nhà vua,
Việc công minh bạch, lại được Khoái Triệt hết lời trình báo.
Cất cung giết chó, chôn sâu mối hận,
Sẻ cơm nhường áo, ơn trước đây đã không còn.
Qua chốn luyện quân ngoài đất Yên nay vắng vẻ,
Chỉ có tiếng dế kêu, và sắc cỏ tự sớm tự chiều.


Nguyên chú: “Cấm thành huyện bắc giới Kinh Bích phố, hữu Hàn Tín giảng binh cố xứ” 禁城縣北界荊璧鋪有韓信講兵故處 (Phố Kinh Bích ở phía bắc địa giới huyện thành Cấm, có nơi xưa Hàn Tín giảng binh).

Hàn Tín người đời Hán, quê ở Hoài Âm. Thời hàn vi ông làm nghề câu cá, nhờ Tể tướng Tiêu Hà tiến cử được phong Đại tướng. Trong 5 năm ông đã giúp vua Hán Cao Tổ lập được nhiều chiến công, được phong Tề vương; sau đổi là Sở vương. Có người vu cáo Hàn mưu phản, Hán Cao Tổ vờ đi chơi đất Vân Mộng, bắt về giáng làm Hoài Âm hầu. Sau bị Lã Hậu khép tội giết ba họ. Nơi Hàn Tín luyện quân trước là đất Yên, nay là phố Kinh Bích, tỉnh Hà Bắc.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]