拜命恭紀

簪筆經秋廁玉堂,
華程簡命倍兢惶。
幸聯楓陛瞻依近,
驚奉綸音顧問詳。
陶造此身知僭越,
疏慵撫己愧承當。
是行憑仗君王廕,
紳佩重來挹御香。

 

Bái mệnh cung kỷ

Trâm bút kinh thu xí ngọc đường,
Hoa trình giản mệnh bội căng hoàng.
Hạnh liên phong bệ chiêm y cận,
Kinh phụng luân âm cố vấn tường.
Đào tạo thử thân tri tiếm việt,
Sơ dung phủ kỷ quý thừa đương.
Thị hành bằng trượng quân vương ấm,
Thân bội trùng lai ấp ngự hương.

 

Dịch nghĩa

Trải bao thu làm việc quan được chen chân nơi ngọc đường,
Được lệnh đi sứ trong lòng càng thêm lo lắng.
May mắn được đến gần bệ son, gần cận chiêm ngưỡng,
Sợ hãi được nghe lời vua thương quý thăm hỏi tường tận.
Bản thân được đào tạo dạy dỗ, cũng biết là vượt quá tài năng,
Xét mình vụng về thô phác, thẹn vì được gánh vác công việc.
Chuyến đi này, là nhờ vào phúc ấm của quân vương,
Áo mũ, lại lần nữa được thêm ân sủng.


Nguyên dẫn: “Nhị nguyệt thập cửu tảo thần, Lễ bộ đường quan kinh dẫn sứ thần cập hành nhân đẳng bái mệnh vu Cần Chánh điện đình, phụng tuyên triệu sứ thần thượng điện huấn dụ nhất thiết sứ vụ. Ngật mông vấn cập dư gia thân tịnh thân kỷ niên xỉ; phụng tuỳ Lễ bộ tấu minh, tái phụng uỷ lạo: Nhĩ đẳng sứ thần thị hành an hảo. Di thời khấu hưng xu xuất. Lễ bộ quan tái kinh dẫn Thanh Hoà điện bái từ, phụng tứ toạ khoản trà, tịnh uỷ lạo: đồng bộ an hảo. Khắc dư thoái xuấta.” 二月十九早辰禮部堂官經引使臣及行人等拜命于勤政殿庭奉宣召使臣上殿訓諭一切使務,訖蒙問及余家親並身己年齒。奉隨禮部奏明,再奉慰勞:尔等使臣是行安好。移辰叩興趨出。禮部官再經引清和殿拜辞。奉賜坐款茶並慰勞同部安好。刻餘退出。 (Sáng sớm ngày 19 tháng Hai, quan Bộ Lễ dẫn đoàn sứ thần và tuỳ tùng đến sân điện Cần Chánh, kính tuyên triệu sứ thần lên Thượng điện, nghe nhà vua huấn dụ mọi nhiệm vụ trong cuộc đi sứ này. Xong, [Người] hỏi thăm cha tôi và tuổi của tôi. Tôi nhờ Bộ Lễ tâu lên rõ ràng, lại được vua uỷ lạo: Sứ thần các ngươi đi sứ lần này bình an. Lát sau, khấu tạ, đi ra; quan Bộ Lễ lại dẫn sứ đoàn đến điện Thanh Hoà chào từ biệt [vua]; cả sứ đoàn được cho ngồi, ban trà, uý lạo: Tất cả bình an. Hơn một khắc thì lui ra.)

Bài thơ này bản chép trong Hoa trình tạp vịnh có thm lời dẫn nhưng chép thiếu hai câu 5, 6.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]