銅雀臺故址

河上遺基半已傾,
相傳銅雀古遺名。
二喬不果娛垂老,
眾妾空勞囑治生。
金鳳玉龍誰復睹,
浮雲流水太無情。
奸雄智數成何用,
疑塚累累草樹平。

 

Đồng Tước đài cố chỉ

Hà thượng di cơ bán dĩ khuynh,
Tương truyền Đồng Tước cổ di danh.
Nhị Kiều bất quả ngu thuỳ lão,
Chúng thiếp không lao chúc trị sinh.
Kim Phượng, Ngọc Long thuỳ phục đổ,
Phù vân lưu thuỷ thái vô tình.
Gian hùng trí sổ thành hà dụng,
Nghi trủng luy luy thảo thụ bình.

 

Dịch nghĩa

Nền đài trên bờ sông một nửa đã nghiêng đổ,
Tương truyền Đồng Tước là tên từ xưa để lại.
Hai Kiều chẳng chịu, quyết vui sống đến già,
Các hầu thiếp luống khó nhọc, vì lời dặn dò lo cuộc sống.
Lầu Ngọc Long, lầu Kim Phượng chẳng ai nhìn thấy nữa,
Nước chảy mây bay, vốn rất vô tình.
Gian hùng lắm mưu mẹo, có dùng để làm gì,
Đám mộ giả lô nhô, cỏ cây bằng lặng.


Nguyên dẫn: “Tại Chương Hà nam ngạn thượng, khứ quan lộ thập lý” 在漳河南岸上,去官路十里 (Nền cũ đài Đồng Tước ở bờ nam sông Chương cách đường cái quan chừng 10 dặm).

Đài Đồng Tước ở Tam Đài thôn, huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Bắc, do Tào Tháo xây dựng năm Kiến An thứ 15 (210 tây lịch). Đồng Tước đài cũng là một công trình kiến trúc quy mô, hoa lệ, cũng là để tích chứa lương thực châu báu, nhưng thường được gắn với giai thoại Tào Tháo tuyên bố xây đài này để bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều ở Đông Ngô về nhốt. Hiện di tích này vẫn còn.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]