Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Phan Huy Chú
Đăng bởi tôn tiền tử vào 25/09/2024 20:46
士君子桑蓬之遊,莫樂乎使。涉風埃,徑水陸九千餘里之遠。山川之所歷覽,人物之所應接,皆平昔耳目有未涉,宜其壯懷飄落,神思攸揚見諸詩歌題詠之間,自然可喜。古今擁使星者何限,而妙吟佳句,前後不一,豈非神來興到,景觸情生,今人未必讓於古歟。我大人星槎一集,近已膾炙人口。吾兄遭逢熙代,繼紹前徽。以強壯之年,預專對之選;周遭品詠,情致淋漓,即中閱之。漢湘雲夢之煙波,黃鶴岳陽之景色,與夫中州廢興之往跡,燕臺繁麗之勝遊,歷歷筆端,描寫如見。蓋未嘗廢昔人窠臼而辭意飄逸,格調溫雅較諸名家顧亦不多讓者。是行也,其真愜丈夫之志,光家門之券。使乎!使乎!諒無負於讀詩者歟?
集中該壹百五十餘首,歸時編錄,囑某批閱而跋訂之。自惟荒拙無似,愧處窮山,按圖索誌,謾誦古人糟粕之遺,其於吾兄壯遊之所發越,豈能復加雌黃。雖然神會而景融,意觸而心悟。昔固有撫琴臥遊之想者,是集諸作某請絃歌而品評之,則夫中原景物之大觀亦可得而神會矣。若夫字句之精詳,新意象之迢逸,觀者當自知之。
庚辰,仲春既望,弟浩拜書于寧山學舍。
Sĩ quân tử tang bồng chi du, mạc lạc hồ sứ. Thiệp phong ai, kính thuỷ lục cửu thiên dư lý chi viễn. Sơn xuyên chi sở lịch lãm, nhân vật chi sở ứng tiếp, giai bình tích nhĩ mục hữu vị thiệp, nghi kỳ tráng hoài phiêu lạc, thần tứ du dương, hiện chư thi ca đề vịnh chi gian, tự nhiên khả hỉ. Cổ kim ủng sứ tinh giả hà hạn, nhi diệu ngâm giai cú, tiền hậu bất nhất; khởi phi thần lai hứng đáo, cảnh xúc tình sinh, kim nhân vị tất nhượng ư cổ dư! Ngã đại nhân Tinh sà nhất tập, cận dĩ khoái chá nhân khẩu. Ngô huynh tao phùng hi đại, kế thiệu tiền huy. Dĩ cường tráng chi niên, dự chuyên đối chi tuyển. Chu tao phẩm vịnh, tình trí lâm ly, tức trung duyệt chi. Hán Tương Vân Mộng chi yên ba, Hoàng Hạc Nhạc Dương chi cảnh sắc dữ phù Trung châu phế hưng chi vãng tích, Yên Đài phồn lệ chi thắng du, lịch lịch bút đoan miêu tả như hiện. Cái vị thường phế tích nhân khoa cữu nhi từ ý phiêu dật, cách điệu ôn nhã giảo chư danh gia cố diệc bất đa nhượng giả. Thị hành dã, kỳ chân thiếp trượng phu chi chí, quang gia môn chi khoán. Sứ hồ, sứ hồ! Lượng vô phụ ư độc thi giả dư!
Tập trung cai nhất bách ngũ thập dư thủ, quy thời biên lục, chúc mỗ phê duyệt nhi bạt đính chi. Tự duy hoang chuyết vô tự, quý xử cùng sơn, án đồ sách chí, mạn tụng cổ nhân tao phách chi di. kỳ ư ngô huynh tráng du chi sở phát việt, khởi năng phục gia thư hoàng. Tuy nhiên thần hội nhi cảnh dung, ý xúc nhi tâm ngộ. Tích cố hữu phủ cầm ngoạ du chi tưởng giả, thị tập chư tác, mỗ thỉnh huyền ca nhi phẩm bình chi, tắc phù Trung Nguyên cảnh vật chi đại quan diệc khả đắc nhi thần hội hĩ! Nhược phù tự cú chi tinh tường, tân ý tượng chi thiều dật, quan giả đương tự tri chi.
Canh Thìn trọng xuân ký vọng. Đệ Hạo bái thư vu Ninh Sơn học xá.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 25/09/2024 20:46
Thú du ngoạn thoả chí tang bồng của kẻ sĩ quân tử, chẳng gì vui bằng đi sứ. Trải gió bụi, vượt núi sông; rong ruổi hơn chín ngàn dặm. Sông núi được ngắm xem, nhân vật được giao tiếp; đều là những điều mà ngày thường xưa nay tai mắt chưa từng trải. Trong cuộc phiêu du sảng khoái, ý thơ thần diệu du dương, thể hiện trong thi ca đề vịnh, tự nhiên đáng vui mừng. Xưa nay đi sứ, có biết bao người, nhưng những bài thơ hay, những câu thơ tuyệt diệu thực không người nào giống người nào. Đó há chẳng phải khi cái thần đã đến, cảm hứng dấy lên, gặp cảnh sinh tình thì người ngày nay chưa chắc đã chịu kém cổ nhân. Tập Tinh sà của cha tôi gần đây đã được người đời ngâm ngợi yêu thích. Anh tôi gặp thời thịnh trị, nối bước vẻ vang của cha ông, đang tuổi cường tráng, được chọn trao việc “chuyên đối”. Đọc suốt tập thơ thấy tình cảm lai láng, xem trong đó tức như khói sóng sông Hán Tương, đầm Vân Mộng, cảnh sắc lầu Hoàng Hạc lầu Nhạc Dương, cùng dấu tích xa xưa hưng phế của Trung Nguyên, cảnh đẹp huy hoàng của Yên Đài hoa lệ, tất cả hiện rõ mồn một nơi ngọn bút. Lời thơ đã không bỏ cái cốt cách của người xưa, mà ý tứ lại phiêu dật, cách điệu ôn nhã, so với các nhà thơ danh tiếng cũng đâu có chịu kém. Cuộc đi sứ này thực thoả chí kẻ trượng phu, làm rạng rỡ gia phong. Ôi, nói về cuộc đi sứ của anh tôi ư? Thực không phụ danh là người đọc Kinh thi vậy.
Tập thơ gồm hơn 150 bài. Khi anh tôi trở về biên tập lại, giao cho tôi phê duyệt, viết lời bạt và hiệu đính. Tôi nghĩ mình kém cỏi không bằng anh, thẹn vì ở sâu trong núi, chỉ căn cứ vào những ghi chép của sách, mà tụng đọc lan man những điều cặn bã của người xưa để lại. Đối với những điều tuyệt diệu về cuộc đi sứ hào hùng của anh, tôi đâu dám động bút thêm lời. Tuy nhiên, khi tâm thần đã xúc cảm thì như hoà cùng cảnh sắc; ý tứ đã gặp gỡ thì lòng như tỉnh ngộ. Xưa vốn có người nằm ôm đàn mà tưởng tượng chuyện rong ruổi, cho nên các bài thơ trong tập thơ này tôi xin ngâm lên mà phẩm bình. Như thế thì đại quan cảnh vật của đất Trung Nguyên cũng có thể lấy thần mà lĩnh hội được. Còn như cái tinh tường của từng câu chữ, ý tứ mới mẻ phóng dật thì người đọc sẽ tự mình hiểu được.
Ngày rằm tháng 2 năm Canh Thìn (1829), em là Hạo kính viết lời bạt tại Ninh Sơn học xá.