Than ôi!
Bóng bạch vi qua cửa, cõi gửi sinh vinh nhục đã đành;
tạo giác ra trời, lòng chi tử cảm thương đà xiết kể.

Đức đại phụ xưa:
Chỉ thực, hạnh nhân;
Thung dung chính khí.

Tài bác học khắp kinh thông thánh, khắp gần xa đều nổi tiếng xạ hương;
Nhà lương y đủ phép linh tiên, bên phủ huyện cũng gia tay ích trí.

Địa cốt xưa từng dào tiếng sấm, dòng hương nhu đòi nghiệp quế quan;
Thiên môn như đội vu dầm, chức hoàng bách cam bày viễn chí.

Vườn thảo quả mở nên nền nếp, bày sinh khương đã đủ bát trân;
Cửa từ cô [?] tảo tần, chức giới tử dùng nên lục vị.

Vậy [chúng] cháu:
Nhờ cửa đào nhân;
Sinh làm toán tử.

Thừa hoan chửa có áo hoàng sâm;
Thuận chỉ không đồ [?] bạch mễ.

Ước nghiêm phụ tuổi nên quốc lão, gồm xuân huyên cho vẹn chữ hồi xuân;
Giận hoàng thiên chẳng có sa nhân, vần yến tước xây nên xe thọ thế.

Lễ nghĩa nói đương khi mộc tặc, ông Phục Thần có thấu tình chăng?
Ân tình mà cặp thuở binh lang, lòng phụ tử thực ai oán nhẽ.

Đức giáo huấn xem bằng êm hải tảo, phận tế tân biết của chi đền;
Công sinh thành ví vững núi Thường Sơn, đạo quân tử nghĩ sau lòng thêm sỉ.

Ôi!
Hải mã, xuyên sơn;
Nam tinh, tư mị.

Ấy ai xui lê lô vĩnh vĩ, liêm kinh giới đường trung hữu khánh, mặt hồng hoa lai láng hạt trân châu;
Tưởng nhân ngôn tất hạ bất ly, muội long nhãn tuôn dào hàng sái lệ.

Thôi thì thôi:
Nhân tiết đương quy;
Đến tuần cát kỵ.

Lòng cam thảo muộn gia hậu phác, tìm mô tượng để kính thờ;
Nhà bạc hà chẳng có tiền hồ, nên phải dụng khiên ngưu làm lễ tế.

Rượu thần khúc ba tuần châm chước, nhân trần cùng nhu mễ, bạch diêm;
Lửa đinh hương một triện kính dâng, cho thấu đến chỉ thiên, thục địa.

Hỡi ôi thương thay!


Phạm Văn Ánh phiên âm từ chữ Nôm.

Trong bài dùng nhiều tên cây thuốc, vị thuốc. Các chữ này được in nghiêng.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]