Than ôi!
Mối di luân truyền dõi, hổ tóc tơ không giả sinh thành;
Máy tạo hoá đổi thay, ngưng hôm sớm phút nên trở cách.

Mịt mù đỉnh Dĩ lồng mây;
Lạnh lẽo thềm huyên pha tuyết.

Vâng từ thị thơ đào sớm nghỉ, khuôn nghi gia công hạnh chỉn gồm no;
Giúp nghiêm quân tóc một sánh đôi, việc chủ quỹ công trình bao kể xiết.

Ba kỷ ghi cần kiệm có thừa;
Chín chữ gấm cù lao càng thiết.

Trước sau ngoài mươi phen ngồi cỏ, cưu mang trải mấy chua cay;
Trai gái vầy tám mặt chia hàng, gây dựng lần thành nền nếp.

Lại thêm nghĩa dưỡng khắp bộ trì;
Cũng một ân tình đều quấn quýt.

Dưới gối chửa dâng bùi ngọt, chén thọ còn ngóng buổi thừa hoan;
Trên tay hãy thử thuốc thang, xe tiên bỗng ruổi đường vĩnh quyết.

Nhìn quan hồng nào thấy âm dung;
Nương màn tố luống đau bào huyết.

Chua xót nỗi cửa nhà trong sạch, lễ trì tang sức cả đã gian tân;
Hớ hênh chiều đầu gót vun trồng, đạo tư hiếu lòng con còn khoáng khuyết.

Thở than cùng mười đất chín trời;
Trông tưởng đã muôn đời ngàn kiếp.

Rày nhân:
Vừa trọn tang nghi;
Liền bày ngu tiết.

Man mác vẻ khói làng mây nội, trong đình vi đành cách diễn khôn tìm;
Lạt lẽo mùi nước suối rau khe, trước diên kỷ ngõ xét soi cùng biết.

Hỡi ôi cảm thay!


Phạm Văn Ánh phiên âm từ chữ Nôm.

Bài này vốn có hai phần, phần đầu là bài văn tế khi thành phục viết bằng chữ Hán, phần thứ hai viết bằng văn Nôm. Ở đây chỉ giới thiệu phần thứ hai.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]