聞三南澍在京出痘康吉喜賦

尊年應兆喜添丁,
慶址光開舞彩庭。
府相吉垣徵斗命,
眉顏清品異童齡。
福根鍾稟成吾寶,
書脈滋培屬寧馨。
誕育幾番遙寄念,
竹音珍重報平寧。

 

Văn tam nam Chú tại kinh xuất đậu khang cát, hỉ phú

Tôn niên ứng triệu hỉ thiêm đinh,
Khánh chỉ quang khai vũ thái đình.
Phủ Tướng cát viên trưng đẩu mệnh,
My nhan thanh phẩm dị đồng linh.
Phúc căn chung bẩm thành ngô bảo,
Thư mạch tư bồi thuộc ninh hinh.
Đản dục kỷ phiên dao ký niệm,
Trúc âm trân trọng báo bình ninh.

 

Dịch nghĩa

Cao tuổi ứng điềm lành, mừng được thêm suất đinh,
Sân “múa áo màu” rạng rỡ bày ra trên nền phúc.
Thiên phủ, thiên tướng đóng mệnh, chứng tỏ lá số tốt,
Nét mày, khuôn mặt thanh tú, khác xa bọn trẻ nhỏ.
Nguồn gốc phúc ấm chung đúc nên hòn ngọc báu của ta,
Dòng dõi thi thư bồi đắp dành cho đứa trẻ quý.
Sinh ra nuôi dưỡng, ở xa bao phen thương nhớ,
Thư gia đình trân trọng báo tin bình yên.


Con trai thứ ba của tác giả tức Phan Huy Chú (1782-1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, hai khoa Đinh Mão (1807) và Kỷ Mão (1819) đều đỗ tú tài, là nhà khảo cứu, nhà sử học triều Nguyễn, một tác giả lớn của dòng văn Phan Huy.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]