Than ôi!
Gương cao bích Hán, làu làu bóng quế cung trăng;
Máy nhiệm hồng quân, thoắt thoắt nương dâu bãi bể.

Trông chừng nào thấy dấu tiên du;
Cám cảnh dễ đau lòng tộc nghị.

Nhớ thuở việt vàng ra cõi Bắc, khúc hoàng sớm ứng duyên lành;
Tới phen trướng gấm dãi lầu Nam, mũ phượng thêm lồng vẻ thuỵ.

Vâng ơn trời lộc nước hãy dồi dào;
Để dấu tổ nền tông còn vẹn vẻ.

Những ước trăm năm thêm thẻ hạc, phận lá cành nhờ rợp càng tươi;
Nào ngờ một phút lối xe loan, chiều hoa cỏ vừa vui lại tủi.

Hẳn non lam khí vượng đã tàn rồi;
Nên vườn Lãng cảnh khơi mà vội thế.

Ngao ngán khói hương dấu cũ, biết làm sao dõi được quốc ân;
Lênh đênh bèo bọt phận hèn, hổ chửa kẻ hay vâng miếu tự.

Tưởng xa gần luống những ngập ngừng;
Nghĩ sau trước càng thêm thăn thỉ.

Rày nhân:
Cách mái linh dư;
Dâng tuần điện tế.

Thẳm thẳm quan san muôn dặm, cảnh còn người vắng ngậm ngùi thay;
Vời vời hoàng giản một diên, lễ ít tình nhiều đau đớn nhẽ.

Hỡi ôi cảm thay!


Phạm Văn Ánh phiên âm từ chữ Nôm.

Bài này viết thay cựu tông thất để tế vua Quang Trung.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]