進抵富春橋小憩,書懷二作其二-又七言古風十七韻

富春橋上南來路,
覲轡登程經四度。
承明宣室邇宸旒,
趨赴不知羈況苦。
體臣多奉假還朝,
傘島瀘江是吾土。
歲華荏苒人白頭,
積恙初瘥怯風露。
占命煌煌畏簡書,
萬縷家情不暇顧。
長亭楊柳雪花飛,
征思催人數聲鼓。
客程更是多坎坷,
三疊匪棍橫山虎。
蕭騷朔吹送輕裘,
海角天涯年又暮。
滿腔忠信何險夷,
梅驛數千俱坦步。
眺詠岩溪匝月中,
瑤畿訪到橋頭浦。
金湯城塹自拱環,
羅綺亭臺相吞吐。
五色祥雲閶闔間,
禁闥記曾締寵遇。
疏慵自分遠江湖,
愧向岩廊列圭組。
逡巡月廩計番期,
文翰一技將奚措。
玉京春色擁遊人,
無之靡闕有靡補。
歸鞍早訪出斯橋,
忙向碧溝花竹塢。

 

Tiến để Phú Xuân kiều tiểu khế, thư hoài nhị tác kỳ 2 - Hựu thất ngôn cổ phong thập thất vận

Phú Xuân kiều thượng nam lai lộ,
Cận bí đăng trình kinh tứ độ.
Thừa minh tuyên thất nhĩ thần lưu,
Xu phó bất tri ki huống khổ.
Thể thần đa phụng giả hoàn triều,
Tản đảo Lô giang thị ngô thổ.
Tuế hoa nhẫm nhiễm nhân bạch đầu,
Tích dạng sơ ta khiếp phong lộ.
Chiêm mệnh hoàng hoàng uý giản thư,
Vạn lũ gia tình bất hạ cố.
Trường đình dương liễu tuyết hoa phi,
Chinh tứ thôi nhân sổ thanh cổ.
Khách trình cánh thị đa khảm kha,
Tam Điệp phỉ côn, Hoành sơn hổ.
Tiêu tao sóc xuý tống khinh cừu,
Hải giác thiên nhai niên hựu mộ.
Mãn xoang trung tín hà hiểm di,
Mai dịch sổ thiên câu thản bộ.
Thiếu vịnh nham khê táp nguyệt trung,
Dao kỳ phóng đáo kiều đầu phố.
Kim thang thành tiệm tự củng hoàn,
La ỷ đình đài tương thôn thổ.
Ngũ sắc tường vân xương hạp gian,
Cấm thát ký tằng đế sủng ngộ.
Sơ dung tự phận viễn giang hồ,
Quí hướng nham lang liệt khuê tổ.
Thuân tuần nguyệt lẫm kế phiên kỳ,
Văn hàn nhất kĩ tương hề thố.
Ngọc kinh xuân sắc ủng du nhân,
Vô chi mị khuyết hữu mị bổ.
Quy an tảo phóng xuất tư kiều,
Mang hướng Bích Câu hoa trúc ổ.

 

Dịch nghĩa

Trên cầu Phú Xuân, con đường đến phía nam,
Cương ngựa lên đường vào chầu vua đã qua bốn lần.
Các toà thừa minh và tuyên thất ở gần thiên tử,
Chạy vạy công việc vất vả không kể nỗi khó nhọc ở đất khách.
Bề tôi thân cận với nhà vua phần nhiều được thảnh thơi trong việc vào chầu,
Núi Tản, sông Lô chính là đất của ta.
Tuổi tác thấm thoắt, người bạc đầu,
Mang bệnh mới khỏi nên sợ gió sợ sương.
Xem mệnh vua rỡ ràng, sợ giản thư cấp báo,
Tình nhà muôn mối mà không rảnh để chú ý đến.
Cây dương liễu ở trường đình hoa tuyết bay,
Nỗi niềm đi xa thúc giục người qua mấy tiếng trống.
Hành trình của khách lại có nhiều trắc trở,
Lũ phỉ ở Tam Điệp, hổ dữ ở Hoành sơn.
Gió bấc lạnh lùng thổi tấm áo cừu nhẹ,
Nơi góc bể chân trời lại vào lúc cuối năm.
Đầy lòng trung tín thì nơi đâu là hiểm trở đâu là bằng phẳng?
Mấy ngàn trạm dịch đều là nơi đất bằng cất bước.
Ngắm vịnh núi khe trong tròn tháng trời,
Thăm đất kinh kỳ, đã tới cây cầu đầu bến sông.
Thành và hào nước bao bọc xung quanh,
Đình đài the lụa cùng ẩn hiện.
Mây lành năm sắc nơi cửa chính của cung điện,
Nơi cấm đình từng đã được ân sủng gặp gỡ.
Lười nhác tự biết phận mình là ở chốn sông hồ xa xôi,
Hổ thẹn khi thấy các vị quan tước trong triều đình.
Hàng tháng lương bổng, tính đến phiên mình,
Nghề văn chương chữ nghĩa sẽ thi thố vào việc gì?
Cảnh sắc mùa xuân nơi ngọc kinh níu người khách du,
Không có [khách du này] thì cũng không phải là thiếu, mà có thì cũng không phải là thêm.
Yên ngựa trở về sớm ra khỏi cây cầu này,
Mau hướng về nơi hoa trúc ở Bích Câu.


Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]