先閨諱辰感作

八年結髮友同庚,
詎忍捐離半世情。
玉質乍拋塵障去,
霜髯頻帶旅愁生。
瑟琴斷絕閨無主,
釵珥依稀筆未成。
追感幾回空館夜,
心香一臬月光橫。

 

Tiên khuê huý thời cảm tác

Bát niên kết phát hữu đồng canh,
Cự nhẫn quyên ly bán thế tình.
Ngọc chất sạ phao trần chướng khứ,
Sương nhiêm tần đái lữ sầu sinh.
Sắt cầm đoạn tuyệt, khuê vô chủ
Thoa nhị y hy bút vị thành.
Truy cảm kỷ hồi không quán dạ,
Tâm hương nhất niết nguyệt quang hoành.

 

Dịch nghĩa

Tám năm kết tóc, làm bạn cùng tuổi,
Ai nỡ dứt bỏ tình cảm khi mới nửa cuộc đời.
Chất như ngọc quí chợt vứt vào trong bụi trần mất,
Nhiều lần mang nỗi sầu lữ khách khiến râu bạc nhiều thêm.
Sắt cầm lìa đứt, khuê phòng không có chủ,
Thoa cài đầu, khuyên đeo tai chập chờn, bút viết chưa xong.
Ban đêm nơi quán khách vắng vẻ nhớ lại mấy hồi,
Một nén tâm hương, ánh trăng chiếu ngang.


Nguyên dẫn: Năm Nhâm Tý (1792), phu nhân đổ bệnh, đúng lúc ấy tôi có chiếu phải vào Nam, nên dứt tình chia biệt. Tới khi đến kinh rồi thì tin cáo phó cũng theo đến, lúc nào cũng trông lên trời mà gạt lệ. Năm Giáp Thìn (1794), là lễ đại tường (giỗ hai năm năm mất), cũng lại ở kinh đô làm lễ tế cúng từ xa. Nay ở nơi quán khách, trộm được chút nhàn, đang tính làm một tiểu truyện cho phu nhân, để thuật lại và tán dương cái đẹp mẫu mực của người phòng khuê nhưng viết chưa xong thì lại đến ngày giỗ, lòng xót xa mà cảm xúc thành bài thơ này.

Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]