Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn bát cú
Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Từ khoá: thơ đi sứ (850)

Đăng bởi tôn tiền tử vào 23/06/2024 17:43

湘灘夜泊

空江煙霧繫孤舟,
遠近峰巒冷氣浮。
拍岸灘聲敲半枕,
穿窗露滴透重裘。
戍刁驚斷三更夢,
旅驛添多二月愁。
聞說湘山無量佛,
征鞭那得訪禪遊。

 

Tương than dạ bạc

Không giang yên vụ hệ cô chu,
Viễn cận phong loan lãnh khí phù.
Phách ngạn than thanh xao bán chẩm,
Xuyên song lộ trích thấu trùng cừu.
Thú điêu kinh đoạn tam canh mộng,
Lữ dịch thiêm đa nhị nguyệt sầu.
Văn thuyết Tương Sơn Vô Lượng Phật,
Chinh tiên na đắc phỏng thiền du.

 

Dịch nghĩa

Khói mù phủ trên sông vắng, buộc con thuyền côi,
Núi non xa gần, hơi lạnh xông lên.
Tiếng ghềnh vỗ bờ sông, khua vào nửa gối,
Giọt móc xuyên cửa sổ, thấm mấy lớp áo cừu.
Mõ chòi canh kinh rợn, đứt giấc mộng canh ba,
Trạm lữ khách tăng thêm mối sầu tháng Hai.
Nghe nói núi Tương Sơn có thờ Phật Vô Lượng,
Roi ngựa đường xa, ước sao được lên thăm cảnh thiền.


Nguyên dẫn: Đêm đã khuya, qua ghềnh gặp trở ngại không đi được, tạm đậu thuyền trước cồn sông, bâng khuâng chẳng sao ngủ được, sáng sớm dậy đi đến thành Toàn Châu.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]