初夏奉召南行登程紀悶

江山迢遞送征麾,
旅況撩人此路岐。
廟事届辰懷罔極,
閨情臨餞痛相離。
塵纓只作浮身累,
香閣難禁別淚垂。
留戀實多顒禱意,
吉康猶冀報音時。

 

Sơ hạ phụng chiêu nam hành, đăng trình kỷ muộn

Giang sơn thiều đệ tống chinh huy,
Lữ huống liêu nhân thử lộ kỳ.
Miếu sự giới thần hoài võng cực,
Khuê tình lâm tiễn thống tương ly.
Trần anh chỉ tác phù thân luỵ,
Hương các nan câm biệt lệ thuỳ.
Lưu luyến thực đa ngung đảo ý,
Cát khang do ký báo âm thì.

 

Dịch nghĩa

Núi sông dài miên man đưa tiễn lá cờ đi xa,
Cảnh lữ thứ trêu người là bước đường ngoặt này đây.
Việc cúng tế đến nơi rồi, nhớ thương vô hạn,
Tình khuê phòng khi tiễn biệt, đau nỗi xa nhau!
Dải mũ trần ai, chỉ làm luỵ tấm thân trôi nổi,
Trên căn gác thơm, khó ngăn dòng lệ biệt ly.
Tình lưu luyến thực mang nhiều ý nguyện,
Mong nhận được điều tốt lành khi có tin báo tới.


Nguyên dẫn: Tôi nhiều lần nhận được chiếu chỉ nhà vua giục vào chầu nên không dám trì hoãn. Lên đường vào ngày mồng 6 tháng Tư, lúc đó bệnh của vợ tôi chuyển sang nguy kịch, tôi đã dặn riêng người nhà sắp sẵn đủ đồ tang lễ, vả lại gần đến ngày kị của thân phụ tôi, nhưng đành dứt tình ra đi, trong lòng ngổn ngang trăm mối, buồn rầu khôn xiết.

Bài thơ làm năm 1792.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]