奉先王禫祭禮感作

龍馭悠悠不可攀,
羈踪偏幸邇橋山。
三秋簠簋時沾淚,
九陛冠紳舊立班。
頂踵此身慚渥眷,
趨蹌無路對威顏。
君臣分誼留天地,
惆悵孤忠俯仰間。

 

Phụng tiên vương đạm tế lễ, cảm tác

Long ngự du du bất khả phan,
Ky tung thiên hạnh nhĩ Kiều San.
Tam thu phủ quỹ thời triêm lệ,
Cửu bệ quan thân cựu lập ban.
Đính chủng thử thân tàm ốc quyến,
Xu thương vô lộ đối uy nhan.
Quân thần phân nghị lưu thiên địa,
Trù trướng cô trung phủ ngưỡng gian.

 

Dịch nghĩa

Cưỡi rồng bay xa thẳm không thể với lại được,
Dấu chân giang hồ riêng may mắn gần núi Kiều Sơn.
Khay chén ba năm, luôn nhỏ lệ,
Mũ áo chín bệ, đứng ở ban cũ.
Thân này từ gót đến đầu thẹn đội ơn chan chứa,
Không sao rảo bước hầu hạ ngắm dung nhan uy nghi.
Tình nghĩa vua tôi lưu mãi trong trời đất,
Ngẩng lên cúi xuống, tấm lòng cô trung ngậm ngùi.


Nguyên dẫn: Mùa thu năm Nhâm Dần [1782], tôi phụng mệnh làm Đốc trấn Thanh Hoa, được hơn mười ngày thì có tin buồn thánh chúa băng hà. Tới mùa đông được hầu nơi xưởng vệ mới được tỏ lòng thương nhớ. Ở đã ba năm thời thường bái yết lăng tẩm ở Trịnh Phúccung tế an tường. Đến nay gặp tiết hết trở, phụng mệnh giữ lễ “đề thần chủ thánh chúa”. Trước sau việc quốc tang đều được chu đáo, lui tới nơi cúng tế cũng là có phận.

Tiên vương tức chúa Trịnh Sâm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]