使








宿









 

Khán kê mẫu tự sồ ngẫu cảm vật tình, ngũ ngôn cổ thập tứ vận

Mẫu thị ái chư nhi,
Ân cần chúc mẫn tư.
Nhân tình cố hữu hằng,
Quan vật cảm phục thư.
Noãn niêm ký xuất ổ,
Yểm phúc song dực thuỳ.
Chuyển noãn sử thường ôn,
Ngoạ đãi ngưng động thì.
Thư sồ thoát noãn xác,
Khởi đê thanh dữ tuỳ.
Dẫn sồ hướng viên phố,
Vệ dực vô thiểu ly.
Phấn nộ hãn ba quắc,
Khởi uý chư kiêu si.
Thân biên thập tam sồ,
Thê túc câu hộ trì.
Sồ khẩu năng ngật lạp,
Bất nhẫn thính đề cơ.
Song giác mịch thảo thực,
Trác toái như hàm di.
Thổ lạp hô sồ lai,
Tự bộ quân sở thi.
Quần sồ mao vũ túc,
A mẫu cân lực bì.
Tạo hoá phú ư vật,
Thông đắc nhất lộ từ.

 

Dịch nghĩa

Gà mẹ yêu các con,
Ân cần chăm chút các con nhỏ.
Tình cảm con người vốn có những điều bất biến,
Xem loài vật mà cảm phục gà mái.
Đẻ trứng vào trong ổ,
Hai cánh rủ xuống để che phủ.
Đảo trứng để khiến chúng thường được ủ ấm,
Là khi bất động nằm đợi chờ.
Gà con chui ra khỏi vỏ trứng,
Dậy kêu nho nhỏ rồi theo mẹ.
Mẹ gà dẫn các con ra ngoài vườn,
Bảo vệ không dời xa dù chỉ một tí chút.
Nổi giận vồ đuổi để che chở con,
Há có sợ chi loài cú diều.
Mười ba chú gà con bên mình,
Khi ăn ở đều được bảo vệ.
Gà con miệng đã biết ăn gạo,
Không nỡ để cho con kêu đói.
Hai chiếc mỏ tìm cỏ ăn,
Mổ vỡ vỏ hạt như ngậm để cho.
Nhả hạt gạo ra rồi gọi gà con đến,
Mớm đều cho các con.
Đàn gà con đã đủ lông đủ cánh,
Thì gà mẹ gân cốt đã mỏi.
Tạo hoá ban cho loài vật,
Chung một con đường ấy là đức hiền từ.


Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]