寄仙田兵奉宜城侯

城邊蓬徑屋三間,
琴劍同遊憶舊歡。
荏苒鶯花經雨水,
依稀雲樹隔橫山。
廟堂春煖朝紳暇,
邊徼塵清戟壘寒。
覲轡幸逢無事日,
逍遙養得片心閒。

 

Ký Tiên Điền Binh phụng Nghi Thành hầu

Thành biên bồng kính ốc tam gian,
Cầm kiếm đồng du ức cựu hoan.
Nhẫm nhiễm oanh hoa kinh vũ thuỷ,
Y hi vân thụ cách Hoành san.
Miếu đường xuân noãn triều thân hạ,
Biên kiểu trần thanh kích luỹ hàn.
Cận bí hạnh phùng vô sự nhật,
Tiêu diêu dưỡng đắc phiến tâm nhàn.

 

Dịch nghĩa

Ngôi nhà ba gian ở lối đi cỏ bồng ngoài thành,
Nhớ cuộc vui xưa đàn kiếm cùng du ngoạn.
Oanh hoa thấm thoắt đã qua tiết vũ thuỷ,
Mịt mờ cây và mây cách dãy Hoành Sơn.
Miếu đường xuân ấm, các quan trong triều được rảnh rang,
Biên ải bụi lắng trong, luỹ kích lạnh.
Cương ngựa vào chầu may gặp ngày rảnh việc,
Nên tiêu dao, dung dưỡng được một tấm lòng thanh nhàn.


Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.

Nghi Thành hầu tức Nguyễn Đề (1761-1805), lúc này ông đang được cử đi trấn thủ thành Quy Nhơn. Ông người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, con trai Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, anh trai thi hào Nguyễn Du.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]