寄待詔尚書灝澤契台

新到上京聯品序,
話傳吾友擅風流。
羅盤點出江山勝,
劄子條開省閣由。
一副才情覃渥眷,
四辰吟嘯滌閒愁。
自慚旅味今蕭寂,
坐度更籌聽里謳。

 

Ký đãi chiếu thượng thư Hạo Trạch khế đài

Tân đáo thượng kinh liên phẩm tự,
Thoại truyền ngô hữu thiện phong lưu.
La bàn điểm xuất giang sơn thắng,
Tráp tử điều khai tỉnh các do.
Nhất phó tài tình đàm ốc quyến,
Tứ thời ngâm khiếu địch nhàn sầu.
Tự tàm lữ vị kim tiêu tịch,
Toạ độ canh trù thính lý âu.

 

Dịch nghĩa

Mới đến kinh, mọi người cùng đánh giá,
Truyền rằng riêng bạn tôi là người phong lưu.
La bàn chỉ ra các nơi cảnh đẹp núi sông,
Tờ biểu tấu được mở ra ở chốn cung đình.
Một bậc tài tình được ơn sâu của nhà vua,
Bốn mùa ngâm vịnh, xua hết nỗi sầu.
Tự xấu hổ vì mùi vị lữ khách, nay tiêu điều tịch mịch,
Ngồi đếm canh khuya, nghe tiếng hát dân gian.


Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.

Người bạn tác giả ở đây là Thượng thư Vũ Huy Tấn (1749-1800), người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, trấn Hải Dương (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương).

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]