庚子春賀兼督同眷台參戎完幹

弧矢英遊瘴霧鄉,
仁干義冑獨翱翔。
番酋豈得踰鈴勒,
猺獠皆知喜袞裳。
國有藩翰重保固,
天多林壑快平章。
宸旒已燭君侯好,
會看邊官入廟堂。

 

Canh Tý xuân, hạ kiêm đốc đồng quyến đài tham nhung hoàn cán

Hồ thỉ anh du chướng vụ hương,
Nhân can nghĩa trụ độc cao tường.
Phiên tù khởi đắc du linh lặc,
Dao lão giai tri hỷ cổn thường.
Quốc hữu phiên hàn trọng bảo cố,
Thiên đa lâm hác khoái bình chương.
Thần lưu dĩ chúc quân hầu hảo,
Hội khán biên quan nhập miếu đường.

 

Dịch nghĩa

Chí hồ thỉ hăng hái xông vào nơi sương mù khí độc,
Nhân là giáo, nghĩa là mũ, một mình vẫy vùng.
Tù trưởng ngoài cõi, há được phép vượt nhạc ngựa dây cương,
Mán Mường rừng núi, đều biết mừng thấy uy nghi xiêm cổn.
Nước có bậc giỏi từ hàn, phên dậu thêm vững chắc,
Trời nhiều rừng rú núi khe, sẽ mau chóng thanh bình.
Khi bề trên soi xét rõ tài năng của ông,
Hẳn được thấy ông quan nơi biên ải trở về miếu đường3.


Nguyên dẫn: Ông Ngô Thì Nhậm coi việc quân ở Thái Nguyên và Kinh Bắc. Mùa đông năm Kỷ Hợi [1779], vâng mệnh đến xưởng Tụ Long ở Tuyên Quang cùng với đạo Tây Hưng hợp lực dẹp bọn giặc núi. Mùa xuân năm Canh Tý [1780], việc xong, ông về triều, tôi làm bài thơ mừng.

Canh Tý tức năm 1780.

Ngô Thì Nhậm (1746-1803) là con trai trưởng của Ngô Thì Sĩ, tự Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, là anh vợ của Phan Huy Ích, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam thượng, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội, đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi (1775), cùng khoa với Phan Huy Ích. Dưới thời Lê - Trịnh ông từng làm đến chức Đốc đồng Kinh Bắc kiêm Đốc đồng Thái Nguyên, Tư giảng cho Trịnh Tông. Dưới thời Tây Sơn, ông là một chính khách giỏi, một nhà ngoại giao lỗi lạc, cũng là tác gia lớn của thế kỷ XVIII.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]