Than ôi!
Thềm huyên nguyệt giãi, múa áo ban vừa rạng vẻ tông đường;
Đỉnh Dĩ mây lồng, tỉnh giấc mộng phút khơi chừng Bồng Đảo.

[?] cách lìa chạnh cảm [?] ràng;
Hằng dời đổi không lường máy tạo.

Dòng thi lễ cấu nên điềm huỷ, trinh trang sẵn giá cư hoàng;
Cửa nho thư nối sánh khúc loan, cần kính chăm bề tần tảo.

Bỗng nghiêm quân sớm thoát vòng trần;
Để tiên đức riêng đeo mối não.

Con di phúc bô trì từ trứng nước, khắp đích trai thứ gái, trước sau đùm bọc cũng chung lòng;
Người tề my đơn chiếc đã nguyện thề, lần xuân chiếng thu tàn, hôm sớm dãi dầu đều vẹn đạo.

Gây nền dựng nếp săn sóc gia mưu;
Trao mực đặt khuôn rõ ràng mẫu giáo.

Trải ba kỉ màn từ rủ lẻ, muôn việc trên tay thu vén, tưởng đá vàng dành giám đức ghi công;
Ngoài sáu tuần thẻ thọ chất thêm, một đoàn dưới gối sum vầy, hiềm tơ tóc chửa đền ơn giả kế.

Buổi thừa hoan mong dìu dặt ngọt bùi;
Dấu quy hoá khiến mơ màng xiêm áo.

Thấm thoắt nương dâu bãi bể, nỗi ly sầu luống những thê toan;
Ngậm ngùi nước suối rau khe, đường hiếu lễ hổ còn lạo thảo.

Rày nhân:
Xe liễu trước bày;
Dặm hao sớm dạo.

Man mác huyền quynh mây phủ, bẵng trông xa dứt lối phan hào;
Lạnh lùng ngu ác gió xuyên, tuôn lệ cúi bày lời hiến cáo.


Nguyên chú: “Bà này là con gái họ Lê ở Mai Thượng, được gả làm vợ kế của Huấn đạo họ Nguyễn ở Trạch My. Chồng qua đời, vợ đương mang thai, sau sinh con gái, ở goá nuôi con, lại phụ giúp nuôi hai con trai vợ trước của chồng, hai người con gái của người thiếp; cần mẫn lo toan việc gia đình, dần thành giàu có, các con cái đều được dựng vợ gả chồng, chia đều của cải, 62 tuổi thì mất, các con cùng góp sức chôn cất, nghi lễ rất trọng hậu”.

Phạm Văn Ánh phiên âm từ chữ Nôm.

Bài văn này viết thay các con của bà vợ ông huấn đạo.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]