Than ôi!
Miền êm bể quế, vẻ uân lương pha sóng nước mênh mang;
Bóng ngút nhà xuân, dấu truân tịch cách suối vàng khơi thẳm.

Cảnh sầu lạnh lẽo ba đông;
Lễ hiếu dãi dầu muôn dặm.

Từ được nương vầng nhật nguyệt, vâng tuần tuyên đòi chốn xa xăm;
Chỉn từng gìn dạ băng sương, đủ thanh thận mọi bề cẩn nắm.

Hương quan khách chửa tìm về;
Gia thất con còn để chậm.

Tóc việc năm tuần mới lẻ, cánh bằng đương trước gió thênh thênh;
Giấc hoè một phút vừa tan, xe hạc đã lên mây chắm chắm.

Thuở Đồng Xuân nào kịp lo toan;
Thú Hưng Hoá càng thêm cảm gẫm.

Đất Bắc trải mười năm rong ruổi, hổ hoạn trang chửa chút đượm nhuần;
Thành Đông hầu năm tháng năn than, hiềm tang cụ lấy đâu bày sắm.

Nhẹ đưa thêu thuận, tuôn lệ đôi hàng;
Gần cứa mạch yên, dứt lòng mấy tấm.

Lần lữa gang đồng cõi quạnh, tới gian truân lại thấy, quê cha đất tổ ngậm ngùi thay;
Đìu hiu tranh cỏ nền xưa, toan sinh tụ bao đành, phận mẹ tình con nênh nổi lắm.

Máy hoá công khéo bỗng so le;
Kiếp phù thế biết sao đầm ấm.

Rày nhân:
Bày lễ sơ ngu;
Dâng toà cố tẩm.

Lạt lẽo rau khe nước suối, gót côi ngưng lui tới và phen;
Mịt mờ khói bãi mây làng, phách suốt để trông nhìn một nắm.

Hỡi ôi cảm thay!


Phạm Văn Ánh phiên âm từ chữ Nôm.

Bài văn tế này nguyên nằm trong chùm gồm toàn bộ gồm 6 bài, trong đó năm bài đầu soạn bằng Hán văn, đây là bài thứ 6 bằng chữ Nôm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]