Thơ » Việt Nam » Cận đại » Phan Bội Châu » Ngục trung thư
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/10/2019 23:09
Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng chưa có nguyên tác, xin mời xem bản dịch.
Nếu bạn có thông tin về nguyên tác của bài thơ, xin mời gửi vào bình luận ở dưới.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 26/10/2019 23:09
Tháng 3 năm Quý Mão (1903), tôi tìm tới yết kiến Kỳ ngoại hầu Cường Để ở Huế, tỏ bày việc lớn.
Kỳ ngoại hầu hớn hở nói: Lâu nay tôi vẫn nuôi cái chí lớn đó. Ngặt vì từ lúc Hồ Quý Châu và Nguyễn Thu Nam là hai bạn đồng chí của tôi qua đời đi rồi, tôi để ý tìm kiếm mãi nhưng chưa gặp được ai có thể nói câu chuyện ấy với mình. Nay các ông không từ xông pha muôn dặm, vì chỗ tinh khí với nhau mà tìm đến tôi, tôi xin vui lòng hy sinh tất cả mọi sự, để cùng các ông nằm gai nếm mật, nếu có thể báo đáp quốc ân trong muôn một, dầu tôi có thể tan thây mất xác cũng vui.
Rồi Kỳ ngoại hầu cùng tôi và hai ông Lê, Đặng đi vô Quảng Nam hội họp các đồng chí ở nhà ông Nguyễn Thành trên núi. Chúng tôi bí mật bàn tính các việc, cùng tôn Kỳ ngoại hầu lên là hội chủ, và giao công việc của đảng từ hai tỉnh Nam Nghĩa trơ về Nam cho Nguyễn Thành gánh vác, còn hai tỉnh Bình Trị trở ra Bắc thì tôi đảm nhiệm.
Liền tháng Sáu năm đó, tôi trở về Nghệ, rồi thẳng đường ra Bắc Kỳ dạo chơi hơn 10 tỉnh, lên sắp đặt việc đảng và tìm bạn đồng chí. Rồi tôi lặn lội lên miệt Yên Thế, tới đồn Phồn Xương để yết kiến Hoàng tướng quân Hoa Thám. Hoàng tướng quân vốn là tay cứng trong đảng cần vương Bắc Kỳ. Từ lúc ông Nguyễn Bích tử trận, ông Nguyễn Thiện Thuật chạy sang Tàu thì đảng cần vương Bắc Kỳ tan rã. Duy có Hoàng tướng quân một mình chiếm giữ miền núi tỉnh Bắc Giang, chống cự với Bảo Hộ đã ngoài 10 năm.
Người Pháp chia cắt miệt rừng cho tướng quân cai quản để cùng tướng quân giảng hoà. Người trong nước ta từ đàn bà con trẻ, chẳng ai mà không nghe tiếng tăm Hoàng Hoa Thám lừng lẫy. Từ hồi nào đến giờ, tôi mới được bước chân vô trong đồn trại này là lần thứ nhất.
Tôi nhớ hôm đó là mùng 8 tháng 8 năm Quý Mão. Cùng đi với tôi một chuyến là hai ông Nguyễn Cừ và Cao điền Nguyễn Điển. Hai ông này ở chờ ngoài đồn, chỉ có mình tôi vô trong. Rủi nhằm lúc Hoàng tướng quân đang mắc bịnh nặng, không thể cùng tôi hội đàm được. Nhưng tướng quân sai người con trưởng là Cả Trọng và hai viên ái tướng là Cả Dinh và Cả Huỳnh tiếp đãi tôi vui vẻ tử tế.
Tôi ăn ở trong đồn 11 ngày, rồi thổ lộ hết tâm sự mình rồi mới ra đi. Đảng ở Bắc Kỳ từ đó mới tổ chức lại. Tháng 10, tôi trở vô Kinh, báo cáo việc đảng cho hội chủ hay. Hội chủ nói với tôi: “Nam trung vốn là khu đất của tiên triều gây dựng mở mang, xưa đức Cao hoàng nhờ đó mà khôi phục rỡ ràng nghiệp cũ. Lòng người nhớ cũ rất nhiều. Tiên sinh nên vào một chuyến, chắc có ảnh hưởng không phải nhỏ đâu.”
Thế rồi trung tuần tháng 12 năm Quý Mão, tôi lên đường vô Nam. Cuối tháng chạp, tàu đến Saigon. Qua tháng giêng năm Giáp Thìn, tôi đi Châu Đốc, Hà Tiên, tìm thăm các hào kiệt ở Thất Sơn. Lại đi dạo khắp các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc. Nhân dịp thăm viếng cả những chỗ dấu xưa vết cũ của hai cụ Nguyễn Huân, Trương Công Định, trong ý mong mỏi may ra mình có gặp gỡ được sự gì hay chăng?
Nhưng tôi đi chuyến này, gặp được sự hay rất ít. Thật tôi không ngờ...