Thơ » Việt Nam » Cận đại » Phan Bội Châu » Ngục trung thư
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/10/2019 23:27
Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng chưa có nguyên tác, xin mời xem bản dịch.
Nếu bạn có thông tin về nguyên tác của bài thơ, xin mời gửi vào bình luận ở dưới.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 27/10/2019 23:27
Ban đầu tôi xuất dương chỉ cố chú ý vào vấn đề quân giới. Trong khoảng mấy tháng cơm hàng ngủ trọ ở Đông Kinh, tôi được nhân dịp biết rõ câu chuyện Nhật Nga đánh nhau và thấy được cái hiện trạng của nước Nhật về chính trị, giáo dục, ngoại giao, thực nghiệp.
Thấy người ta rồi, mình hết sức hổ thầm cho mình lúc trước kia chỉ ngồi co ro trong nước, hèn nào chẳng kiến văn mù mờ, tư tưởng bế tắc, không biết gì cả. Hết thảy anh em đồng chí với tôi cũng đều như tôi cả; tôi nghĩ lấy làm tiếc sao không dời được tất cả bà con mình qua ở Anh Hoa Tam Đảo để cho khối óc và tầm con mắt thay đổi mới lạ hẳn đi! Sau khi quyết định rước Hội chủ xuất dương, tôi tính phải về nước một chuyến mới được. Thượng tuần tháng 7 năm Ất Tỵ (1905), tôi với ông Đặng Tử Kính đáp tàu ở Hoành Tân về nước.
Tôi qua Nhật Bản chuyến này, đối với việc đảng sai khiến phó thác, mà tôi bỏ dở dang giữa đường như vầy, thật không khỏi tự lấy làm hổ thẹn. Nhưng có hai việc, có thể gỡ tội cho mình. Một là mưu phò được Hội chủ xuất dương, thì càng thêm vững lòng khuynh hướng của anh em trong nước, mà lại khỏi lo có sự gì nguy hiểm xảy tới. Hai là đem những sự tai nghe mắt thấy mới lạ, cùng là việc mình mưu toan, để bộc bạch với anh em đồng bào, chắc hẳn có phần bổ ích cho cuộc cải lương tấn phát mai sau. Vịn vào hai lẽ đó, tôi mạnh bạo trở về.
Tháng 8, về tới Hải Phòng, ở nhà một người bạn trong đảng. Sự vui mừng không tả cho hết. Là vì lúc tôi đến Bắc Hải, đánh liều đáp xuống một chiếc tàu tây, nhờ cậy được một người đồng bào đốt than trong tàu che chở giùm. Tới lúc người tây xuống tàu khám xét thì anh ta giấu tôi ở khoang tàu dưới chót, chung quanh chất đầy than đá, tôi nằm lọt vô giữa im lìm không dám hó hé. Nhờ vậy mà người tây không hay, tôi mới lén về trong nước đặng. Đó cũng là một việc mạo hiểm mà thành công.
*
Lên bến Hải Phòng rồi, tôi đáp xe lửa đi về Nghệ An. Trên xe lửa, tình cờ gặp lão Tuần phủ X... tỉnh Thái Bình vốn là tay bợm hót giỏi trong đám quan trường. Lão viết mấy chữ trên miếng giấy nhỏ đưa cho tôi xem, như vầy: “Ông trốn đi chưa đầy tuần lễ, mật thám đã bủa khắp nơi. Vậy ông sớm liệu đào tẩu cho mau, không thì nguy đấy”.
Tôi hơi lo. Nhưng cái mục đích mình trở về nước nhà chưa đạt được, thì chưa có thể nào đào tẩu, ta cứ việc ở nhà đã, ra sao thì ra. Tôi bèn trốn trở về Hà Tĩnh, ước hẹn những anh em kín đáo tới hội họp tại nhà Đặng quân. Còn Tử Kính thì đem giấy tờ trọng yếu vô Huế trước để yết kiến hội chủ, rồi đi thẳng vô Quảng Nam, nói việc mình định mưu tính vậy vậy cho đồng chí 2 tỉnh Nam Nghĩa hay. Tôi ở quanh quẩn trong Nghệ Tĩnh, ngày ngày cùng các đảng hữu bàn định việc làm. Kế đó có thư của đồng chí ở Kinh và Quảng gởi tới thôi thúc nên gấp đi ra ngoài. Vì đất Nghệ Tĩnh là đất người Tây để ý dòm nom coi chừng hơn hết, cho nên các đồng chí không muốn tôi ở lần lựa trong chỗ nguy hiểm đó lâu. Vừa may gặp ông Trần Đông Phong đem lại 15 nén bạc và 200 đồng tặng tôi làm lộ phí, và giục tôi khởi trình.
Thế là tôi lại từ giã non nước Hồng Lam, lên đường bôn ba.
*
Lúc ra đi, tôi lưu Tử Kính ở lại Huế, dặn dò ông Đặng Thái Lân lo việc hộ vệ Hội chủ xuất dương cho thật vẹn toàn; lại viết thư nhắc nhở cho anh em phải liệu định sẵn sàng món tiền mua sắm và chuyên chở khí giới để sắp đặt khởi sự mai sau. Thượng tuần tháng 9, tôi với Nguyễn quân Thức Canh từ bến đò Chế Giang ra đi. Cuối tháng ấy chúng tôi đến Hải Phòng, gặp được một người làm bồi dưới chiếc tàu tây, tên là Lý Tuệ, tính giùm cho tôi cái kế thoát hiểm.
Lý Tuệ là người có gan dạ, mưu mô, thâm hiểu nghĩa lớn. Về sau, ông ta ngầm giúp công việc kia khác cho đảng chúng tôi được nhiều lắm. Lúc này tìm cách đưa tôi xuất dương, ấy là bước đường thứ nhất của ông ta dấn mình vào quốc sự vậy. Thật là một người hăm hở làm việc nghĩa, gặp nạn coi chết như không. Tôi không ngờ giữa lúc mình gió bụi xông pha lại gặp được người như thế. Nghe nói bây giờ này ở trong tù sau khi bị Tổng đốc Lưỡng Quảng bắt vào ngày 24/12/1913) ông ta đã bị đày, còn sống hay chết rồi không rõ.
*
Tháng 10 năm ấy (1905), tôi đến Hoành Tân, vô ở nhà trọ cũ, thấy một vị thanh niên học sinh ta là Lương quân Lập Nham đã tới đó trước rồi. Tôi xem ra người có khí phách hăng hái, đầu tóc đang để bờm sờm; dò hỏi mới biết ông ta bỏ nhà vượt biển trốn sang Nhật có một mình, lúc lên bờ trong túi chỉ vỏn vẹn có ba đồng xu. Thật vậy, tôi vừa vui mừng vừa chưng hửng. Vì bạn tuổi nhỏ ở nước nhà, một thân một bóng mà dám liều mạng xông pha sóng gió muôn trùng, tới một nước thuở nay chưa nghe thấy bao giờ, Lương Quân chính là người thứ nhất vậy. Té ra Lương Quân vốn là người chứa sẵn kỳ khí, chỉ nghe nói tôi qua Đông Kinh, thành ra mạnh bạo bỏ nhà bỏ nước ra đi.
Bạn thiếu niên anh tuấn của ta sau này, có mấy người được như Lương Quân? Kế đó, tôi bôn tẩu giữa khoảng Đông Kinh - Hoành Tân, thường thường cùng những người tai mắt trong dân đảng nước Nhật nối liền thinh khí, nhờ họ chỉ vẽ về điều hay việc phải cho mình rất nhiều. Nhân đấy tôi nghĩ lại dân trí nước mình còn quá thấp thỏi, mà nhân tài cũng thiếu thốn không có. Chừng ấy tôi tự ăn năn việc mình lo toan lúc trước là nông nổi, chỉ bo bo về vấn đề quân giới, nào có phải đó là cái kế tuyệt hay để mưu tính công cuộc độc lập cho nước mình được đâu! Một bữa nọ, tôi đến nhà Lương Khải Siêu, trong lúc bút đàm, có đem ý kiến ấy ra nói, Lương bảo tôi như vầy: “Cái kế hoạch độc lập của quý quốc có ba đề mục lớn. Một là thực lực riêng ở trong nước các ông. Hai là nhờ hai tỉnh Quảng nước tôi cứu viện. Ba là nhờ sức cứu viện của Nhật. Hai tỉnh Quảng giúp chỉ là giúp giùm khí giới. Mà Nhật có giúp cũng chỉ giúp về mặt ngoại giao. Còn thì nhất thiết đều trông cậy ở thực lực của quý quốc mà thôi.”