Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Phan Đình Phùng
戎場奉命十更冬,
武略依然未奏功。
窮戶嗷天難宅雁,
匪徒遍地尚屯蜂。
九重車駕關山外,
四海人民水火中。
責望愈隆憂愈重,
將門深自愧英雄。
Nhung trường phụng mệnh thập canh đông,
Võ lược y nhiên vị tấu công.
Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn,
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong.
Cửu trùng xa giá quan san ngoại,
Tứ hải nhân dân thuỷ hoả trung.
Trách vọng dũ long ưu dũ trọng,
Tướng môn thâm tự quý anh hùng.
Vâng mệnh ở chốn binh nhung đã mười năm,
Mưu lược đánh giặc vẫn chưa nên được việc gì.
Dân chúng cùng đường đói khổ kêu trời như đàn nhạn không có chỗ ở,
Bọn giặc còn đóng đồn như ong khắp mọi nơi.
Xa giá của vua đang ở ngoài quan sơn,
Nhân dân bốn bể như sống trong nước sôi lửa bỏng.
Trách nhiệm càng cao thì mối lo càng lớn,
Nghĩ mình cũng trong cửa tướng, mà riêng thẹn với tiếng anh hùng.
Trang trong tổng số 1 trang (10 bài trả lời)
[1]
Việc quân vâng mệnh trải mười đông,
Chiến sự nay còn tính chửa xong.
Dân đói kêu trời tan ổ nhạn,
Quân thù chật đất dậy đàn ong.
Chín trùng thánh chúa nơi quê lạ,
Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng.
Trách vọng càng cao, lo lại lặng,
Tướng môn những thẹn với anh hùng.
Gửi bởi Nguyễn Đông Ngạn ngày 15/05/2010 22:09
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Nguyễn Đông Ngạn ngày 15/05/2010 22:12
Có 1 người thích
Tiêu Đồng xin góp mấy ý kiến về bài “Lâm chung thời tác 臨終時作” của Cụ Đình nguyên Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân Phan Đình Phùng đăng trên Thi Viện như sau:
1. Trước hết, bổ sung tên hiệu của Cụ Phan Đình Phùng 潘廷逢 là Châu Phong 珠峰.
2. Tác phẩm của Cụ:
- Việt sử địa dư 越史地輿.
- Có thơ văn trong các sách: Danh nhân thi tập 名人詩集, Đại gia bảo văn tạp biên 大家寶文雜編, Giai văn tập ký 佳文集記, Hoàng triều Hàn lâm viện thực lục 皇朝翰林院實錄, Thi văn đối liên tạp lục 詩文對聯雜錄, …
3. Nguyên văn chữ Hán bài thơ “Lâm chung thời tác 臨終時作”:
臨終時作
戎場奉命十更冬,
武略依然未奏功。
窮戶嗷天難宅雁,
匪徒遍地尚屯蜂。
九重車駕關山外,
四海人民水火中。
責望愈隆憂愈重,
將門深自愧英雄。
Phiên âm:
Nhung trường phụng mệnh thập canh đông,
Vũ lược y nhiên vị tấu công.
Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn,
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong.
Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại,
Tứ hải nhân dân thuỷ hoả trung.
Trách vọng dũ long ưu dũ trọng,
Tướng môn thâm tự quý anh hùng.
Dịch nghĩa: Làm lúc sắp mất
Vâng mệnh ở chốn binh nhung đã mười năm,
Mưu lược đánh giặc vẫn chưa nên được việc gì.
Dân chúng cùng đường đói khổ kêu trời như đàn nhạn không có chỗ ở,
Bọn giặc còn đóng đồn như ong khắp mọi nơi.
Xa giá của vua đang ở ngoài quan sơn,
Nhân dân bốn bể như sống trong nước sôi lửa bỏng.
Trách nhiệm càng cao thì mối lo càng lớn,
Nghĩ mình cũng trong cửa tướng, mà riêng thẹn với tiếng anh hùng.
4. Phần dịch thơ: Bản dịch của Lê Thước lấy trong sách “Phan Đình Phùng, cuộc đời và sự nghiệp” là:
Việc quân vâng mệnh trải mười đông,
Chiến sự nay còn tính chửa xong.
Dân đói kêu trời tan ổ nhạn,
Quân thù chật đất dậy đàn ong.
Chín trùng thánh chúa nơi quê lạ,
Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng.
Trách vọng càng cao, lo lại lặng,
Tướng môn những thẹn với anh hùng.
Gửi bởi Nguyễn Đông Ngạn ngày 15/05/2010 22:18
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Nguyễn Đông Ngạn ngày 16/05/2010 03:33
Có 1 người thích
Nhung trường vâng mệnh đã mười đông,
Việc võ lôi thôi vẫn chẳng xong.
Dân đói kêu trời vang ổ nhạn,
Quân gian dậy đất rộn đàn ong.
Chín trùng lận đận miền quan tái,
Trăm họ phôi pha đám lửa nồng.
Trách vọng càng to càng mệt nhọc,
Tướng môn riêng hổ tiếng anh hùng.
Gửi bởi Nguyễn Đông Ngạn ngày 14/04/2014 16:43
Trích đoạn lúc Cụ Phan sắp mất trong sách "Ký sự lịch sử" nói trên:
"... Các tướng đều bưng mặt khóc nức nở, không ai nói được câu gì.
Cụ lại vời phu nhân lại ngồi bên giường, và con cháu đứng sắp hàng trước mặt mà nói:
- Bấy lâu tôi lo việc nước đã không xong, mà cảnh quê nỗi nhà cũng phải biến hoạ tơi bời, nay giữa đường lỡ dở, tôi phải bỏ mà đi, biết bao mối di hận ôm ấp trong lòng, nói càng thêm đau mà nói cũng chẳng hết. Chỉ biết là số trời đã định sao thì mình phải chịu vậy, không chống nổi mà cũng không tránh được bao giờ. Thôi thì sau ngày giờ nào tôi nhắm mắt rồi, mấy mẹ con cứ ra hàng phục cho được an toàn; ta biết thế nào bên nghịch cũng có lương tâm quý trọng nghĩa khí của ta, chắc không nỡ hại vợ con ta đâu mà sợ.
Phu nhân ngồi nghe, nước mắt chảy xuống ròng ròng nãy giờ, tới đây mới gạt luỵ mà nói:
- Xin ông tịnh dưỡng, may được bình phục, cho mẹ con tôi được theo hầu mãi ở trong chỗ gian nan cơ khổ thế mà vui, chứ ông bỏ đi một mình, tôi có sung sướng chi ở đời nữa...
Rồi cụ bảo người cháu tới bên dặn dò đinh ninh:
- Hễ chú nhắm mắt thì cháu dẫn thím và hai em cứ ra trước đồn Pháp mà tự thú. Cháu đã có học chắc biết "Chí thành chi đạo khả dĩ cảm nhân" (giữ đạo rất mực thành thật, tất nhiên có thể cảm được lòng người) ta quyết rằng người Pháp không xử tàn nhẫn đâu mà lo.
Nói vừa dứt lời, cụ truyền đem bút mực lại và bảo người cháu đứng đó chép lời cụ đọc. Ai cũng nghĩ rằng cụ đọc một tờ chúc thư hay là viết thư để lại cho Chính phủ Bảo hộ, ký thác vợ con.
Người ta phỏng đoán sai hết.
Cụ đọc cho chép một bài thi cảm khái.
Bài thi như vầy:
Nhung trường phụng mệnh thập canh đông,
Võ lược y nhiên vị tấu công.
Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn,
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong.
Cửu trùng xa giá quan san ngoại,
Tứ hải nhân dân thuỷ hoả trung.
Trách vọng dũ long ưu dũ đại,
Tướng môn thâm tự quý anh hùng.
Dịch nôm:
Nhung trường vâng mệnh đã mười đông,
Việc võ lôi thôi vẫn chẳng xong.
Dân đói kêu trời vang ổ nhạn,
Quân gian dậy đất rộn đàn ong.
Chín trùng lận đận miền quan tái,
Trăm họ phôi pha đám lửa nồng.
Trách vọng càng to càng mệt nhọc,
Tướng môn riêng hổ tiếng anh hùng.
Từ hôm đó trở đi, bệnh thể của cụ càng giờ càng thêm trầm trọng; thuốc men thay đổi nhiều phương cũng vô hiệu. Một vị danh y trong miền nghe tin cụ đau phải mạo hiểm muôn vàn mới lên được núi Quạt để trị bệnh cho cụ mà cũng không giảm chút nào.
Lối 8 giờ sáng ngày 13 tháng 11, cụ mất. Trước giây phút cuối cùng, cụ mở mắt ngó quanh chư tướng, hình như muốn nói gì nữa, nhưng hết hơi rồi không nói được nữa, chỉ thấy hai bên khoé mắt ứa luỵ, rồi thì nhắm luôn. Linh hồn thênh thang lên trên thế giới những anh hùng nghĩa sĩ cổ kim đông tây vì việc nước nhà hy sinh, không kể thành công hay là thất bại. Cụ hưởng thọ 49 tuổi..."
Gửi bởi hongha83 ngày 25/04/2014 14:41
Mười năm vâng mệnh việc binh nhung,
Võ lược y nguyên, việc chửa xong!
Kẻ khó kêu trời tan tác nhạn,
Giặc càn đầy đất rối ren ong!
Quan hà xa giá ngoài muôn nẻo...
Nước lửa nhân dân kẹt mấy vòng!
Trách vọng càng to, lo cũng lớn,
Khúc nhôi cửa tướng thẹn anh hùng!!
Gửi bởi Trương Việt Linh ngày 12/08/2016 18:52
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Trương Việt Linh ngày 12/05/2017 20:25
Nhung trường vâng lệnh mười đông
Việc quân lỡ dở chưa xong một phần
Đầy trời nhạn lạc kêu rân
Quân thù chật đất rộn ràng bầy ong
Trăm dân chịu cảnh lửa nồng
Bôn ba quan tái cửu trùng long đong
Ngôi cao gánh nặng càng tăng
Tướng môn so bậc anh hùng thẹn thay
Gửi bởi Đinh Tú Anh ngày 19/10/2018 19:18
Mười năm vâng mệnh chốn binh nhung
Mưu lược xem ra vẫn mịt mùng.
Dân khổ, nhạn than thương chẳng xiết,
Giặc ngông, ong nhốn hận vô cùng.
Xe vua vẫn biệt biên cương lạnh,
Thế nước còn trong nước lửa nung.
Ngẫm tướng mà đành, lo lại lớn,
Lòng riêng riêng thẹn tiếng anh hùng.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/08/2020 17:01
Nhung trường vâng mệnh đã mười đông,
Vũ lược còn chưa lập được công.
Dân đói kêu trời xao xác nhạn,
Quân gian chật đất rộn ràng ong.
Chín lần xa giá non sông cách,
Bốn bể nhân dân nước lửa nồng.
Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh,
Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng.
Gửi bởi Đất Văn Lang ngày 25/10/2020 18:50
Sa trường phụng mệnh đã mười đông
Võ kém mưu cùn chửa lập công
Dân khổ khóc gào như lũ nhạn
Đồn thù vây hãm tợ bầy ong
Đức vua biền biệt quan sơn lạnh
Thiên hạ sục sôi nước lửa nồng
Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh
Nằm trông trướng rũ thẹn anh hùng.
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 19/06/2021 11:08
Binh nhung vâng mệnh đã mười đông,
Mưu lược diệt thù vẫn chửa xong.
Dân đói kêu trời nhạn vỡ tổ,
Bọn gian đồn đóng khắp như ong.
Cửu trùng đang ở ngoài quan ải,
Bốn bể nhân dân trong lửa hồng.
Trách nhiệm càng cao lo mối lớn,
Nghĩ mình cũng tướng, thẹn anh hùng.