Đăng bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 22/02/2008 21:54
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 04/07/2009 14:47
Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long (1 tháng 1 năm 1940-) là một nhà thơ hiện đại Việt Nam. Ông sinh tại Lạc Viên, Hải Phòng, trong một gia đình đông y. Sống ở Trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương(1943-1951), Sài Gòn – TP.HCM (1954 đến nay). Từ 1964-1973: Tu sĩ Phật giáo, làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu truyện Kiều - Đoạn trường Vô Thanh. Năm 1973 -2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh Điện công Phathata (viết tắt chữ Pháp -Thân – Tâm)
Tác phẩm đã in:
Thơ Phạm Thiên Thư (1968), Kinh Ngọc (Thi hoá Kinh Kim Cương), Động Hoa Vàng (Thơ, 1971), Đạo ca (Nhạc Phạm Duy); Hậu Kiều - Đoạn Trường Vô Thanh (1972), Kinh thơ (Thi hoá Kinh Pháp Cú); Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài (Thơ), Kinh Hiếu (Thi hoá), Kinh Hiền (Thi hoá Kinh Hiền Ngu, gồm 12.000 câu lục bát), Ngày xưa người tình (thơ), Trại Hoa Đỉnh Đồi (thơ) 1975, Thơ Phạm Thiên Thư (NXB Đồng Nai tái bản), Tự điển cười (24.000 bài tứ tuyệt tiếu liệu pháp. Năm 2007, Trung tâm Sách và Kỷ lục Việt Nam đã trao cho ông kỷ lục là người đầu tiên viết Từ điển cười bằng thơ), Vua núi vua nước (Tức Sơn Tinh Thuỷ tinh, NXB Văn hoá Thông tin, 2003)...
Các nhạc bản phổ từ thơ Phạm Thiên Thư: Ngày Xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng, Gọi em là đoá hoa sầu, Em lễ chùa này, Huyền thoại trên một vùng biển, Loài chim bỏ xứ (Nhạc Phạm Duy), Như cánh chim nay (Nhạc Cung Tiến), Guốc tía, Đôi mắt thuyền độc mộc (Nhạc Võ Tá Hân); Độc Huyền (Nhạc Nguyễn Tuấn), Động Hoa vàng (Nhạc Trần Quang Long)...
Nói về cõi thơ Phạm Thiên Thư, Hà Thi trong “Phạm Thiên Thư, người thi hoá kinh Phật” đã viết: “Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn (1968), nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ đạo!”
Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc (miền Nam VN) vào năm 1973 (tác phẩm Đoạn Trường Vô Thanh). Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: “Em lễ chùa này”, “Ngày Xưa Hoàng Thị”, “Động Hoa Vàng”, “Gọi Em Là Đoá Hoa Sầu”...
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng, ngủ say...
Sông này chảy một dòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông...
Ta về rũ áo mây trôiThơ Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo như thế, thật là khác thường, làm cho độc giả ngẩn ngơ, bất ngờ... Quả là cõi thơ Phạm Thiên Thư đã giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên...
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...
Đợi nhau tàn cuộc hoa nàyNhiều người đã hiểu sai, cho rằng Phạm Thiên Thư đi tu mà lòng vẫn hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: “Tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”.
Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ
Tìm trang lệ ố hàng thơ
Chữ xưa quyên giục bây giờ chim đi...
Đăng bởi Vanachi vào 22/11/2019 01:38
Cũng như nhiều người, tôi mê tình khúc Ngày xưa Hoàng thị do Phạm Duy phổ nhạc bài thơ của Phạm Thiên Thư từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường trung học ở miền Nam trước 1975. Và cùng với những bản tình ca Đưa em tìm động hoa vàng, Gọi em là đoá tình sầu, Em lễ chùa này, Ngày xưa Hoàng thị... thơ Phạm Thiên Thư, do Phạm Duy phổ nhạc đã trở thành một sự cộng hưởng nghệ thuật lạ lùng ở miền Nam trong thập niên bảy mươi. Sự cộng hưởng nhiệm mầu ấy không chỉ là sự hoà hợp diệu kỳ của cuộc hôn phối giữa thi ca và âm nhạc mà còn ở sự chiếm lĩnh thế giới tâm linh của bao thế hệ thanh niên lúc bấy giờ. Lời thơ ấy, âm nhạc ấy đã trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi với biết bao người trong cuộc đời mà nhiều khi chỉ một dấu chân bé nhỏ của ai đó thuở nào cũng hằn sâu trong tâm thức để rồi suốt đời tìm kiếm mỗi khi nhớ về những buổi “tan trường”
Em tan trường vềThật vậy, tình yêu bao giờ cũng chứa trong nó sự huyền diệu của khát vọng kiếm tìm. Cái đẹp của tình yêu vì thế cũng là cái đẹp của sự đam mê khám phá và tìm kiếm. Phạm Thiên Thư cũng thế!? Ông cũng đã yêu, đã sống, đã hạnh phúc và khổ đau giữa cõi đời và cõi yêu. Vì thế tình yêu trong thơ ông bao giờ cũng gắn với những hoài niệm nhiều khi rất cụ thể. Đó là một chùm hoa “ép từ hạ cũ”, là một “đường mưa nho nhỏ” ngày em tan trường, là “Chúng mình ngày nọ / ngó mây lang thang”, là “con đường sầu đông / em đi guốc tía”, là “em nhớ gì không / cái chiều hạ nọ”... Chính những kỷ niệm tưởng như bình thường mà rất thiêng liêng này là nguyên nhân tạo nên nỗi khát vọng kiếm tìm trong tâm hồn thi sĩ.
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng...
(Ngày xưa Hoàng thị)
Rồi em về đâu“Rồi em về đâu”, một câu hỏi như một lời tự vấn. Đó cũng là nỗi xót xa khi nhận ra sự hiện hữu của tình yêu ngày nào chỉ còn là những giấc mơ trong hoài niệm của bến bờ hư tưởng
Nhớ chi con cầu
Riêng ta ngồi mãi
Dưới tàng hoa ngâu
(Qua cầu)
Bây giờ hoa cũTình yêu luôn đồng hành với nỗi nhớ. Và nỗi nhớ bao giờ cũng chứa trong đó những chiêm bao nên sự kiếm tìm trong tình yêu cũng chính là sự kiếm tìm những giấc chiêm bao diệu kỳ mà Tế Hanh có lần đã thảng thốt, bàng hoàng:
Rụng hoài trong mơ
(Giàn mơ)
Chiêm bao bừng tỉnh giấcPhải chăng khi sự hiện hữu của tình yêu chỉ còn là những hoài niệm thì con người cũng chỉ biết tìm tình yêu trong mộng mị vô thường. Cứ thế, thực và mộng, nhớ và quên, hạnh phúc và khổ đau, mãi vận chuyển như kiếp luân hồi.
Biết là em đã xa
Trên tường một tia nắng
Biết là đêm đã qua
(Chiêm bao - Tế Hanh)
Đợi em dài một luân hồiChính vì vậy, bước vào cõi yêu trong thơ Phạm Thiên Thư, ta luôn bắt gặp nỗi ám ảnh của một con người đi tìm “bụi đỏ” mà ai đó đã vô tình mang đi. “Bụi đỏ” chính là dấu tích của tình yêu đã xa mờ trong quá vãng. Nhưng cũng là hạt bụi của phận người trong cõi phù sinh mà một thi sĩ đồng thời là một tu sĩ Phật giáo như Phạm Thiên Thư đã cảm nhận từ trong vô thức của mình.
Thêm vài giờ nữa mình ngồi có sao
Đợi em như đợi chiêm bao
Biết đâu chiêm mộng có vào đêm nay
(Đợi chờ)
Mốt mai em nhớ bao giờVì Vậy, nỗi ám ảnh “bụi đỏ” đó không chỉ hiện hữu ở bài thơ Ngày xưa Hoàng thị mà còn bàng bạc trong nhiều bài thơ khác của Phạm Thiên Thư như một vết hằn trong tâm thức. Để rồi vết hằn ấy trở thành nỗi đau trong tâm cảm thi nhân.
Bãi dâu vẫn mộ cho dù sắc không
(Động hoa vàng)
Thôi còn gì đâuMặc dù vậy thi nhân vẫn yêu đến vô cùng hạt bụi ngày ấy, tuy giờ đã quá xa xăm với một tình yêu miên viễn, một tình yêu lặng lẽ, vô ưu và độ lượng. Một tình yêu mà ở đó không có những vụ lợi tầm thường, chỉ có tiếng gọi thổn thức từ trái tim lặng lẽ
dặm trường bụi đỏ
(Tái ngộ)
Anh lặng nghe bằng timThơ tình của Phạm Thiên Thư là thơ được dệt thành từ những mộng mị vô thường. Nói như Joseph Huỳnh Văn: “Có phải những ngày sầu đưa, những sắc vàng nhạt, những động hoa vàng là cõi thơ của Phạm Thiên Thư? Xa thì từ muôn thuở, muôn nơi, mà gần thì ở chính ngay lòng thi sĩ; cho nên tuy thân thiết, lời thơ vẫn mang cái vẻ ngậm ngùi xa vắng’’. Bởi, cái khát vọng trong tình yêu của thi nhân thật giản dị, chân thành và trong sáng đến hồn nhiên như một giấc mơ.
Thấm từ lời mật đó
Anh thành con còng nhỏ
yêu hạt bụi vô cùng
(Giọt mật)
Bây giờ ta đã gặp nhauNguyễn Du trong Truyện Kiều đã để cho Kim - Kiều thốt lên một điều dự cảm mà mỗi khi đọc lên ta luôn thấy se lòng:
Thì xin đừng để nghìn sau ngậm ngùi
(Chiêm bao)
Người ơi gặp gỡ làm chiCó lẽ, chính vì sự dự cảm duyên phận bẽ bàng ấy mà dẫu trải qua mười lăm năm lưu lạc truân chuyên, Kiều vẫn không quên Kim Trọng. Và chàng Kim dù sống an phận với Thuý Vân vẫn không nguôi thương nhớ Kiều, vẫn mãi đi tìm cho được người tình ngày ấy của mình.
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Tìm xưa quẩn quanh
Ai mang bụi đỏ
Dáng ai nho nhỏ
Trong cõi xa vời.
Tình ơi!... Tình ơi!...
(Ngày xưa Hoàng thị)