25.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Tản văn
Thời kỳ: Trần
2 bài trả lời: 1 bản dịch, 1 thảo luận
Từ khoá: Vân Lỗi sơn (2)

Đăng bởi Vanachi vào 14/09/2008 21:27, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 21/04/2024 17:48




















西
宿
西

































 

Sùng Nghiêm sự Vân Lỗi sơn Đại Bi tự

Phù:
Nhị nghi hữu tượng, hiển phúc tải dĩ hàm linh sinh;
Tứ thời vô hình, tiềm hàn thử dĩ hoá vật.
Viên dĩ:
Khuy thiên giám địa, dong ngu giai thức kỳ đoan;
Minh âm vấn dương, hiền triết hãn cùng kỳ số.
Nhiên nhi:
Thiên địa bao hồ âm dương, nhi dị thức giả, dĩ kỳ hữu tượng dã;
Âm dương xử hồ thiên địa, nhi nan cùng giả, dĩ kỳ vô hình dã.
Cố tri:
Tượng hiển khả trưng, tuy ngu bất hoặc;
Tiềm hình mạc đổ, tại trí do mê.
Huống hồ:
Phật đạo sùng hư, thừa hư khống tịch.
Kim trụ trì đại hoà thượng:
Ẩn lâm nhất minh, xả thân xuất gia. Vị hộ tý trụ trì Khánh lâm sự sự hữu chiếu mệnh kỷ niên hỹ. Tắc thừa hứng du phương. Kiến Vân Lỗi sơn, tứ phương uất mậu, kỳ tâm khả ngoạn, tắc khai sơn tạc thạch, kiến lập sổ am, tố Tam Thế nhất bộ, Đại Bi nhất bộ toàn kim, trí vu đình sơn. Dần hôn đảo chúc, hoàng đồ củng cố, thiên hạ thái bình, thánh cung vạn tuế.
Niệm:
Kỳ đông hữu tụ lạc, lục ly ốc xá, khả vi hào gia chi phú quý;
Kỳ nam ấp trường giang xuất đại hải chi khẩu, khả vi thế giới chi minh mang.
Kỳ tây hữu Kinh, mạch lạc thấu đáo Ma Ni sơn, Đại Ly chi hương, khả vi quận huyện chi tráng quan;
Kỳ bắc hữu đại lộ dẫn xuất Thần Đầu chi hải khẩu, khả vi khứ lai chi giai túc.
Chính dĩ tứ phương vi giới, trấn ư Vân Lỗi sơn, sơn chi chủ dã. Kim hữu hoang thổ, hàm thuỷ cước sơn, dụng đáng nhi hữu dư; đông cận tiểu mạch, Khê Sơn xuất thuỷ vi giới; tây thủ Vỹ Sơn, để xứ tụ nhân vi giới. Lưu thông thường trụ tam bảo, dĩ dưỡng chúng tăng, bổ trợ mạc lưu đồi hoại. Cẩn thuật bỉ hoài, tư kỷ kỳ nhật nguyệt, cố lập thạch khắc minh viết:

Vân Lỗi chi sơn,
Am tại giang biên.
Kiến lập chi nhân,
Hạnh giải câu toàn.
Ân cập tồn vong,
Phúc ấm thiên niên.
Đại Bi thuỳ từ,
Cứu độ chúng sinh.
Thượng dẫn mê đồ,
Hạ tế hàm linh.
Nhân nhân hân duyệt,
Xứ xứ văn thanh.
Diệu đạo ngưng huyền,
Mạc tri kỳ tế.
Hối ảnh quy chân,
Thiên nghi việt thế.
Kim dung yểm sắc,
Hiện xuất quang lệ.
Sơn thần ủng hộ,
Đàn na cúng thí.
Dần hôn bất tuyệt,
Phú gia tuỵ chí.
Tư tự tư minh,
Khắc vi quốc thuỵ.

Thiệu Biến tam niên Nhâm Tý tuế nhị nguyệt hữu bộc xạ Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh cẩn thuật kỳ hầu thủ mai tỉnh thư.

Môn Sâm lịch Tỉnh Thướng vân đoan,
Thân tại bích tiêu Ngân Hán gian.
Hạ thị kình đào thiên vạn lý,
Trường thiên phù thuỷ, thuỷ phù san.

Hữu bộc xạ Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh Nghĩa Phu.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ

Ôi:
Đất trời có tượng, tỏ chở che để nuôi dựng muôn linh;
Thời tiết không hình, ngầm nóng lạnh để hoá thành vạn vật.
Vì thế cho nên:
Ngó nhòm trời đất, kẻ cung phàm đều biết được mối manh;
Tra xét âm dương, bậc thánh triết hiếm nay cùng vận số.
Thế nhưng:
Đất trời chứa đựng âm dương, mà dễ hiểu, là vì có tượng;
Hai khí ở trong trời đất, mà khó hay, là bởi không hình.
Cho nên mới biết:
Tượng rõ dễ hay; tuy ngu chẳng rối;
Hình ngầm khó thấy, dẫu trí còn mê.
Phương chi:
Đạo Phật chuộng hư, cưỡi “không” ngự “tịch”.
Nay trụ trì đại hoà thượng:
Ẩn tích non rừng, lìa nhà tu đạo, để giúp đỡ việc trụ trì chùa Khánh Lâm, đã có chiếu mệnh ghi rõ năm tháng. Nhân đó sư thừa hứng du ngoạn nhiều nơi, thấy non Vân Lỗi, bốn bề sầm uất, trong lòng ưa thích, sư bèn mở núi bạt rừng, xây dựng vài am, đúc pho Tâm Thế, cùng tượng Đại Bi, toàn bằng vàng thực, đặt ở đỉnh non, sớm chiều cầu khấn: hoàng đồ bền vững, thiên hạ thái bình, đức vua muôn tuổi.
Sư nghĩ nơi đây:
Đông có xóm làng, cửa nhà đông đúc, có thể làm nơi chung đỉnh của hào gia;
Nam gần sông lớn, chảy tới biển khơi, có thể làm chốn mênh mông cho thế giới.
Tây có sông Kinh, len lỏi tới hương Đại Ly, núi Ma Ni, có thể làm cảnh tráng quan cho các vùng quận huyện;
Bắc kề đường lớn, ăn thông tới Thần Đầu hải khẩu, có thể làm nơi nghỉ tốt cho kẻ lại người qua.
Đúng là dùng bốn phía làm giới phong, đứng trấn ở non Vân Lỗi, vì non này là chủ các non. Nay có đất hoang, chân non sát liền nước mặn, thường sử dụng còn thừa, đông gần đường nhỏ, lấy nguồn nước Khê Sơn làm giới hạn, tây giáp Vỹ Sơn, lấy chốn họp đông người làm giới hạn. Việc lưu thông thường ở nhà chùa, để nuôi tăng, cho tu bổ lại không để đổ nát. Tôi kính cẩn giải lời quê vụng, ghi lại tháng năm, cho nên dựng bia và khắc bài minh này:

Kề non Vân Lỗi,
Am cỏ bên sông.
Con người xây dựng,
Giới tuệ viên thông.
Kẻ sống người chết,
Ngàn năm phúc chung.
Chúng sinh cứu vớt.
Từ bi rủ lòng,
Bến mê dẫn đặt.
Muôn loài qua sông,
Mọi người hớn hở,
Khắp chốn ngông trông.
Đạo huyền sâu lắng,
Bờ bến khôn cùng.
Đổi hình lánh tục,
Khuất bóng về “không”
Nét vàng mờ sắc,
Hiện ra huy hoàng.
Thần non hộ vệ,
Thí chủ cúng dâng.
Sớm chiều không ngớt,
Tấp nập giầu sang.
Minh này tựa ấy,
Ghi làm sử vàng.

Trèo mây tay với trăng sao,
Thân nơi sông Bạc tầng cao xanh mờ.
Cúi nhìn muôn dặm sóng xô,
Nước lưng trời thẳm, non phô mặt duềnh.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
23.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Về bài thơ đề cuối văn bia Sùng Nghiêm tự Vân Lỗi sơn Đại Bi tự

Xem trực tiếp ảnh chụp ma nhai chùa Sùng Nghiêm thấy nội dung đăng trên Thi viện có gõ chữ Hán sai chức quan và tên tự của Phạm Sư Mạnh: 右僕射硤石范師孟義夫 (HỮU bộc xạ Hiệp Thạch - Phạm Sư Mạnh - NGHĨA PHU)https://www.facebook.com/share/NuUhdoSyiso5tHyT/?mibextid=WC7FNe

Du ư nghệ
Chưa có đánh giá nào
Trả lời