蘆花店聽砧

秋著蘆花兩岸明,
箇中一室有餘清。
慣聽欸乃短長韻,
何處丁東三兩聲。
似遣幽人增逸興,
非關戍婦怯閨情。
床頭怕作功名夢,
助我荒雞時一鳴。

 

Lô Hoa điếm thính châm

Thu trước lô hoa lưỡng ngạn minh,
Cá trung nhất thất hữu dư thanh.
Quán thinh ai nãi đoản trường vận,
Hà xứ đinh đông tam lưỡng thanh.
Tự khiển u nhân tăng dật hứng,
Phi quan thú phụ khiếp khuê tình.
Sàng đầu phạ tác công danh mộng,
Trợ ngã hoang kê thời nhất minh.

 

Dịch nghĩa

Thu nhuốm hoa lau, hai bờ toả sáng,
Một ngôi nhà ở trong đó, sạch sẽ có thừa.
Tai quen nghe giọng hát vần dài ngắn trong trẻo,
Tiếng nện thình thịch từ đâu vọng tới nhịp hai ba.
Tựa như làm tăng thêm thú nhàn dật của người ẩn sĩ,
Không liên quan gì đến tình khuê phụ của người lính thú.
Giữa lúc đang lo mộng công danh đến đầu giường,
Con gà rừng gáy lên một tiếng giúp ta tỉnh dậy.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Tuấn Nghi

Ngàn lau thu nhuốm sáng đôi bờ,
Một nếp nhà trông vẻ mộng thơ.
Ai đó rong thuyền buông điệu hát,
Chày đâu đập vải rộn đêm mờ.
Nhàn nhân được thể càng cao hứng,
Chinh phụ can chi hoá thẫn thờ.
Sợ mộng công danh còn đeo đẳng,
Gà rừng bỗng gáy tỉnh cơn mơ.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Hoa lau thu nhuốm sáng hai bờ,
Sáng, sạch trong nhà vẻ nên thơ.
Trong trẻo vẳng nghe vần giọng hát,
Thịch thình vọng tới nhịp chày vơi.
Tăng thêm nhàn dật người về ẩn,
Khuê phụ chẳng liên lính thú đời.
Lo mộng công danh đang lúc đến,
Gà rừng bỗng gáy tỉnh ta mơ.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời