Đưa tay ta vẫy ngoài vô tậnHai câu đó thành cái neo của con tàu Phạm Hầu neo vào lòng người đọc. Cảm giác vũ trụ mênh mang vẫy tay vào vô tận phải đứng trên đài cao Vọng hải với một tâm hồn thi sĩ mới có được. Tôi đã từng dùng bộ óc duy lý để thắc mắc ý nghĩa của câu thứ hai “Chẳng biết xa lòng có những ai?”
Chẳng biết xa lòng có những ai?
Trong đày ải mình trần tê ngọn lửaHai câu cuối bài này vằng vặc trong tâm tưởng nhà thơ Tế Hanh, nhất là khi mắt nhà thơ đã không còn đọc được sách, anh chỉ bạn cùng ký ức với những câu thơ thuộc tự thiếu thời:
Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn
Nếu tôi đau, trời đẹp, nếu tôi đauThơ Phạm Hầu lúc nào cũng đau đáu một nỗi cô đơn. Hình tượng sự cô đơn cao thượng của Prométhée lấy lửa của trời bị chim ác rỉa thịt thật kiêu hãnh! Đó là ngọn lửa cách mạng ông góp phần mang lại cho nhân dân, sẵn sàng nhận sự tra tấn tù đày của thực dân Pháp. Nếu còn sống, hẳn ông đã đứng trong hàng ngũ thơ kháng chiến, thơ cách mạng như các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…
Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau!
Một tiếng tâm linh ngàn tiếng vọngNếu thực là tiếng tâm linh, tâm huyết thì có thể tạc cả lên khoảng không như tạc vào đá vậy!
Khoảng không hoá đá tạc thơ Người.
Buồn len lỏi trên đầu cây, thi vịCàng quý sự tinh tế của Hoài Thanh - Hoài Chân. Hai ông thấy tâm hồn thơ Phạm Hầu mảnh mai, e dè, khiêm nhường “ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để lại dấu trên đường…” đến mức hai ông không thể cảm nhận được khi tạp chí Tao đàn in thơ Phạm Hầu bằng thứ chữ in to đậm. Hai ông còn cho rằng Vọng hải đài chính là đài lòng của Phạm Hầu, thi sĩ đứng trên điểm cao đó để thẩm định mọi mây sớm gió chiều qua lại.
Gieo lệ vàng trên ngấn nắng chiều trôi
Nàng và tôi, nhánh sầu chung rễ cộiVà chỉ chờ một duyên cớ, một tác động nhỏ nào đó cũng đủ cho hai nhánh sầu đó hoà tan thành suối lệ:
Khi giọt sương âu yếm nhỏ lên ngườiPhạm Hầu lớn lên trong nhịp sống mòn mỏi đến tẻ nhạt, là người có học, ông càng cố gắng tìm hiểu về nơi mình sẽ đến, nhưng ông không chỉ gặp một sự trống vắng:
Nàng và tôi là hai dòng lệ nối
Tôi theo tư tưởng vô cùng tậnCon người bơ vơ ấy từng thấy hé một chân trời, nhưng trong hoàn cảnh ngặt nghèo, chỉ có thể gợi ra như một biểu tượng:
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu
Sáng sớm rạng đông, chiều chạng vạng
Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
(Lý tưởng)
Giữa trưa bơ vơNhưng dù lý tưởng của ông là thế nào, lý do tồn tại của ông cho đến hôm nay, vẫn vì ông là thi sĩ Phạm Hầu, ông tồn tại với tư cách người sáng tạo ra những câu thơ, bài thơ ghi được vào lòng người đọc, những hạt ngọc góp cho kho tàng thi ca đất nước:
Sầu chi không rõ
Tôi làm câu thơ
Mà vần cũng đỏ
Ai đọc thơ tôi
Đóng giùm cửa ngõ
Trời xanh của tôi
Muốn đầy hoa đỏ
(Màu đỏ đang rung)
Ngập ngừng ai vẫn qua êm nhẹCái nhìn người đẹp toả hương ư? Hay nhẹ như hương?
Một cái nhìn hương, chỉ thế thôi!
(Mộng cù lao)
Thẫn thờ lá trúc rưng rưng lệSau này trong Cuộc chia ly màu đỏ, Nguyễn Mỹ cũng coi lá như mắt:
Như mắt đa tình lúc tiễn đưa
(Vọng lâu)
Nắng còn ngời trên những mắt lá siNguyễn Mỹ có thể chưa đọc hai câu thơ trên để bị ảnh hưởng, nhưng người đi bước trước, vẫn là Phạm Hầu.
Cái cây thi sĩ vô tình đãSức liên tưởng phong phú cùng với tri thức hội hoạ của Phạm Hầu giúp ông tạo nên những câu thơ kỳ diệu:
Biên những dòng thơ lá bẽ bàng
(Y Lan)
Nàng khóc bằng tay trên phím ngàCó cái nhìn rõ để phân tích, lại có cách nhìn nhoè đi, chỉ để gây cảm giác, quệt một mảng màu trên vải:
Những ngón tay dài như lệ sa
(Dạ nhạc)
Ai về lướt thướt trong đêm trắngXướng hoạ - thơ của thi sĩ không phải lúc nào cũng chỉ một gam màu dịu nhẹ. Có lúc ông cũng ấn tượng và dữ dội:
(Nhớ tự nhiên)
Trăng cháy sau màn cây đỏ ốiTừ hai bài thơ Chiều buồn và Vọng hải đài trong Thi nhân Việt Nam, nay qua cả tập thơ, ta đã hình dung được khái quát một diện mạo của thi sĩ Phạm Hầu.
Máu bầm của một vết thương đau
(Sầu thương)