Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm » Thu ẩm
Người nay chẳng thấy trăng thời trướcTam Nguyên Yên Đổ cũng có nhiều câu thơ rất đậm đà ý vị nói về rượu:
Người trước, trăng nay soi đã từng
Người trước, người nay như nước chảy
Cùng xem trăng sáng đều thế đấy
Chỉ ước vui ca thưởng chén quỳnh
Be vàng, trăng sáng vào rọi mãi.
(Tương Như dịch)
Khi vui chén rượu say không biết
Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa.
(Cáo quan về ở nhà)
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu.
(Lụt, hỏi thăm bạn)
Rượu ngon không có bạn hiền,Và còn có "Thu ẩm" - mùa thu uống rượu. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là "Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe". Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà say... đến "say nhè": "Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy - Độ năm ba chén đã say nhè". "Say nhè" là say êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha. Nguyễn Khuyến rất thanh cao, chỉ có "năm ba chén" nhỏ, đúng là cái thú "Khi vui chén rượu say không biết" hoặc "Khi hứng uống thêm năm chén rượu - Khi buồn ngâm láo một câu thơ" (Đại lão)
Không mua không phải không tiền không mua...
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắpNay nhà thơ chỉ còn uống rượu trong đêm sâu, âm thầm, lặng lẽ và cô đơn. Cao Bá Quát nửa đầu thế kỷ XIX chỉ uống rượu "tiêu sầu". Còn Nguyễn Khuyến "đêm thu nay’’ uống rượu cho vơi đi nỗi buồn thế sự "Rằng quan nhà Nguyễn nhà Nguyễn cáo về đã lâu" uống rượu để thao thức, thao thức nên uống rượu để vơi đi nỗi đau cuộc đời: "Có phải tiếc xuân mà đứng gọi - Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ (Cuốc kêu cảm hứng). Vợ chết, con mất, bạn chí thân qua đời, tuổi già, ốm đau, Nguyễn Khuyến mượn "năm ba chén rượu” để vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn:
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân?
Đời loạn đi về như hạc độc,Hình như chén rượu của nhà thơ đã tràn đầy nước mắt? Hai câu kết ý tại ngôn ngoại. Thấm một nỗi buồn mênh mông. Người đọc vô cùng xúc động khi thấy nhà thơ "say nhè" nằm ngủ:
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.
(Gửi bạn)
Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy,Cả bài thơ, ngoài đầu đề "Thu ẩm" ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy: le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh... với các từ "rượu", "chén", "say nhè" - cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm.
Độ năm ba chén đã say nhè.
Sách một hai phiên làm bầu bạnSau khi Nguyễn Khuyến mất gần nửa thế kỉ, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng có câu thơ nói về rượu: "Du kích quy lai tửu vị tàn". (Thu dạ, 1948)
Rượu năm ba chén đổi công danh.
(Tự thán - 10)