Thơ » Chilê » Pablo Neruda
Đăng bởi thanhbinh82_tp vào 05/08/2007 13:14, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi sabina_mller vào 16/11/2008 02:59
Antes de la peluca y la casaca
fueron los ríos, ríos arteriales,
fueron las cordilleras, en cuya onda raida
el cóndor o la nieve parecían inmóviles:
fue la humedad y la espesura, el trueno
sin nombre todavía, las pampas planetarias.
El hombre tierra fue, vasija, párpado
del barro trémulo, forma de la arcilla,
fue cantaro caribe, piedra chibcha,
copa imperial o silice araucana.
Tierno y sangriento fue, pero en la empunadura
de su arma de cristal humedecido,
las iniciales de la tierra estaban escritas.
Nadie pudo
recordarlas después: el viento
las olvidó, el idioma del agua
fue enterrado, las claves se perdieron
o se inundaron de silencio o sangre.
No se perdió la vida, hermanos pastorales.
Pero como una rosa salvaje
cayo una gota roja en la espesura
y se apagó una lámpara de tierra.
Yo estoy aquí para contar la historia.
Desde la paz del búfalo
hasta las azotadas arenas
de la tierra final, en las espumas
acumuladas de la luz antártica,
y por las madrigueras despenadas
de la sombría paz venezolana,
te busque, padre mío,
joven guerrero de tiniebla y cobre
o tú, planta nupcial, cabellera indomable,
madre caimán, metálica paloma.
Yo, incásico del legamo,
toqué la piedra y dije:
¿Quién me espera? Y aprete la mano
sobre un punado de cristal vacío.
Pero anduve entre flores zapotecas
y dulce era la luz como un venado,
y era la sombra como un párpado verde.
Tierra mía sin nombre, sin América,
estambre equinoccial, lanza de púrpura,
tu aroma me trepó por las raíces
hasta la copa que bebía, hasta la más delgada
palabra aún no nacida de mi boca.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi thanhbinh82_tp ngày 06/08/2007 13:14
Trước tóc giả và áo đuôi én
đã có sông, những dòng sông huyết mạch;
đã có những dãy núi lởm chởm uốn mình
nơi kên kên và tuyết dường bất biến;
đã có cái ẩm và sự tăng trưởng dầy đặc, có sấm sét
tuy không tên và những cánh đồng hoang.
Con người là bụi, cái bình đất, một mi mắt
rung rung bằng bùn, khuôn đất sét -
hắn là cái ấm Carib, đá Chibcha,
cái tách đế quốc hay cát Arauco.
Hắn dịu dàng và khát máu nhưng
trên đuôi võ khí hắn - bằng đá lửa ẩm nhờn -
đã có ghi
những chữ ban đầu của địa cầu.
Về sau không một ai
có thể nhớ: gió đã quên chúng,
ngôn ngữ nước đã bị chôn,
chìa khóa đã thất lạc
hoặc chìm trong máu trong im lặng.
Này các anh em vùng đồng cỏ, đời sống
không mất đi. Những tợ bông hồng dại
một giọt đỏ rơi nơi tăng trưởng đặc dầy
và một cái đèn đất bị dập tắt.
Tôi ở đây để kể lại.
Từ sự yên bình của trâu
tới những vùng cát biển bị chà đạp
nơi tận cùng của đất
trong sự tích-tụ-phun của ánh sáng Nam cực,
và qua những hầm dốc hiểm của
sự thanh bình trong bóng râm xứ Venezuela
tôi tìm cho cha, cha ơi,
người chiến binh kim loại đồng và bóng tối,
hoặc tìm cha, cây hôn phối, tóc bất khuất,
mẹ cá sấu, bồ câu kim loại.
Tôi, người Inca đất bùn,
chạm tay vào đá và nói:
Nay ai
đợi tôi? Và tôi nắm chặt
một nhúm đá lửa rỗng.
Tôi bước đi giữa hoa Zapotec,
Và ánh sáng êm dịu như nai,
Và hình dạng là một mi mắt xanh.
Đất tôi không tên, không America,
nhị hoa ngay điểm phân mùa, cái lao tím,
hương vị em từ cội-rễ-tôi lên mắt kiếng
tới môi tới lời mong manh nhất
tuy chưa sanh trong miệng tôi.