Nguyễn Quý Đức 阮貴德 (1648-1720) hiệu Đường Hiên 堂軒, tự Bản Nhân 体仁, người xã Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm (nay là xã Đại Mỗ huyện Từ Liêm, Hà Nội). Ông là cha của Hoàng giáp Nguyễn Quý Ân và là ông nội của Nguyễn Quý Kính. Ông giữ các chức quan, như: Tả Thị lang Bộ Lại, Nhập thị Bồi tụng, tước Liêm Đường bá, rồi thăng Đô Ngự sử, sau bị giáng làm Tả Thị lang Bộ Binh, rồi lại thăng hàm Thiếu phó, tước Liêm Quận công, sau được thăng đến Thái phó, Quốc lão, được vinh phong Tá lý công thần và được cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Sau khi mất, ông được tặng chức Thái tể và phong phúc thần.

Sinh thời ông là người sống thuần hậu, có tài văn chương và được người đời kính trọng. Tác phẩm có Thi châu tập, Hoa trình thi tập, đề tựa sách Việt sử thông khảo, và một số bài thơ văn chép trong Toàn Việt thi lục. Trong cuốn Nguyễn Quý văn phả có chép 16 bài thơ của ông, trong đó có 11 bài thơ chữ Nôm.

 

Thơ chữ Hán

Thơ chữ Nôm