Đọc nhiều nhất
Thích nhất
Mới nhất
Tạo ngày 24/10/2005 12:39 bởi
Vanachi, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 24/05/2009 09:36 bởi
Vanachi Kể từ khoảng cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ thứ XX là khoảng thời gian cái chủ nghĩa thực dân ở bên Âu tây đang lên mạnh. Những nước ở bên Á đông như Trung hoa, Nhật bản, Việt nam và Xiêm đều là những nước có văn hóa tối cổ, có nền chính trị phân minh, có kỷ cương, có chế độ rõ ràng, nhưng vì kém hèn về đường vũ bị, cho nên đều thành ra những miếng mồi của những nước thực dân như nước Anh, nước Pháp, nước Đức, nước Nga, v.v...
Song mỗi một nước trong những nước suy nhược ấy có một hoàn cảnh, một tình thế đặc biệt, cho nên có nước như Nhật bản, chóng thoát khỏi sự uy hiếp của các nước thực dân; Có nước như Trung hoa và Xiam tuy không đến nỗi mất nước, nhưng cũng bị uy hiếp khá nặng; có nước như Việt nam ta thì không những mất cả quyền tự chủ mà còn bị người ta làm tiêu ma mất cả tinh thần quốc gia nữa.
Số phận nước Việt nam tuy đến năm Nhâm ngọ (1882) mới thật quyết liệt, nhưng cái dự án của người Pháp định lấy nước Việt nam làm thuộc địa đã có từ lâu, mãi tới cuối đời Thiệu trị, tức là vào quãng năm Đinh vị (1847) mới thực hiện ra một cách rõ ràng hơn trước.
Từ đó về sau nước Pháp Chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là vào đánh lấy đất đai và uy hiếp đủ mọi đường. Cái phương sách của người Pháp là đi từ từ từng bước một, trước lấy một nửa Nam Việt, sau lấy cả Nam Việt. Khi công cuộc ở Nam Việt đã xếp đặt đâu ra đấy rồi, bấy giờ mới tìm cách ra lấy Bắc Việt. Lần đầu vào năm Quí dậu (1873) quân Pháp ra lấy thành Hà nội rồi lại trả lại, để mười năm sau là năm Nhâm Ngọ (1882) lại đánh lấy lần nữa. Qua năm Quí tị (1883) Quân Pháp xuống lấy thành Nam định, rồi đến tháng tư năm ấy, người thống suất quân Pháp là Hải quân đại tá Henri Rivière bị quân cờ đen giết ở gần Ô Cầu giấy. Trong khi quân Pháp vào đánh phá, việc nước rối loạn, thì vua Dực tông thăng hà ở Huế vào ngày tháng sáu. Ngài trị vì được 36 năm.
Từ đó về sau, trong khoảng năm sáu năm, bao nhiêu những sự đau buồn xẩy ra ở đất Việt nam. Pháp đã định đánh lấy nước ta, thì lẽ tất nhiên là ta phải đánh lại, song vì sức không đủ, phải nhờ quân tầu sang cứu viện, thành ra trong khoảng từ năm Quí tị (1883) đến năm Ất dậu (1885) đất Bắc Việt khắp nơi bị tàn phá. Quân Pháp thấy tình thế khó khăn, bèn sai Hải quân thiếu tướng Courbet sang đánh thành Phúc châu và vây đảo Đài Loan. Thế bất đác dĩ, triều đình nhà Thanh phải ký hòa ước ngày 27 tháng tư năm Ất dậu (1885) ở Thiên tân, cam đoan rút quân Tàu ở Bắc Việt về và nhận để nước Pháp được quyền tổ chức cuộc bảo hộ ở Việt nam.
Bảo hộ là một chính sách rất khôn khéo. Khi quân Pháp đã chinh phục được cả nước rồi, cứ để nguyên chế độ và các danh vị cũ, chỉ cốt đem những người thân tín hay tôi tớ của mình vào giữ các chức vị để dễ sai khiến. Dần dần người Pháp thu hết cả thực quyền vào tay mình. Những việc như binh bị, tài chính, cai trị và giáo dục v.v...đều do người Pháp chủ trương và điều khiển. Người bản xứ từ vua quan trở xuống hoặc chỉ được giữ cái hư vị, hoặc chỉ được làm những chức vụ thừa hành ở dưới quyền chỉ huy của người Pháp. Theo cái chính sách ấy thì dân khí trong những xú Bảo hộ mỗi ngày một suy nhược đi, lâu dần thành ra một hạng người làm tôi tớ rất giỏi, mà không có cái tư cách làm người tự chủ nữa.
Đại khái những việc ấy ta có thể xem sách vở của Tây hay của ta mà biết được, còn những việc xảy ra ở kinh thành Huế sau khi vua Dực tông mất rồi, thì ít người biết được rõ. Việc triều chính lúc ấy rối loạn do hai người quyền thần muốn thừa cơ mà chuyên quyền túng tứ. Hai người ấy là Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết, một người coi tiền tài và quan lại, một người giữ hết cả binh quyền ở trong tay. Hai người thoạt đầu tiên đổi di chiếu của vua Dực tông, bỏ hoành trừ Dục Đức, cách chức quan ngự sử Phan Đình Phùng và lập vua Hiệp Hòa. Được hơn bốn tháng sau, hai người lại bỏ vua Hiệp hòa rồi đem giết đi, giết cả quan nguyên Phụ chính Trần Tiễn Thành và lập vua Kiến phúc. Lúc bấy giờ Tôn Thất Thuyết mộ quân Phấn nghĩa để giữ mình và thường hay tiếm dùng nghi vệ của vua; Nguyễn van Tường thì lấy tiền hối lộ của lũ khách buôn, cho chúng đem một thứ tiền đúc ở bên Tầu, theo niên hiệu Tự Đức, gọi là tiền sềnh, tiền rất xấu và rất mỏng, bắt dân ở kinh kỳ phải tiêu.
Vua Kiến phúc lên làm vua được sáu tháng thì mắc bệnh, mất một cách khả ngờ. Tường và Thuyết lập ông Ưng Lịch mới 12 tuổi lên làm vua, tức là vua Hàm nghi. Triều đình lúc ấy việc gì cũng do hai người quyền thần ấy quyết định tất cả. Ông Dục đức đã bị truất, không được làm vua, đến bấy giờ cũng bị giết. Hoàng thân quốc thích ai làm điều gì trái ý hai người ấy đều bị giết hay bị đày.
Những việc ấy đều là việc bí mật ở trong triều, người ngoài khó mà biết được rõ ràng. May nhờ lúc ấy có bà Lễ tần Nguyễn nhược Thị đem những sự bà đã tai nghe mắt thấy mà kể ra trong một bài ca có 1018 câu thơ lục bát, gọi là Hạnh Thục Ca.
Bà Nguyễn nhược Thị (1830 1909) người ở Phan rang, thuộc tỉnh Khánh hoà, con gái quan Bố chánh Nguyễn nhược Sâm. Bà có khiếu thông minh, nổi tiếng có tài văn học, được tuyển vào trong cung ngay từ đầu đời Tự đúc, rồi được phong chức Lễ tần là một chức nữ quan dưới bậc phi. Sau bà được cử làm chức bí thư hầu bà Từ dụ Thái hậu là mẹ đức Dực tông. Vua Dực tông thờ mẹ rất có hiếu, mỗi tháng cứ 15 ngày thiết triều bàn việc nước với các quan, 15 ngày sang chầu cung, tức là sang chầu mẹ, trong nước có việc gì quan trọng cũng tâu cho mẹ biết. Bởi vậy bà Lễ tần Nguyễn nhược thị có thể biết đúng những sự thực theo cái quan điểm của người mình lúc bấy giờ, mà quyển sách của bà là quyển sách có giá trị đặc biệt về một đoạn lịch sử của nước ta.
Sao bà Nuyễn nhược thị lại đề nhan sách của bà là Hạnh Thục ca ? Là vì bà thấy cái hoàn cảnh triều Nguyễn lúc ấy phải bỏ kinh thành chạy ra Quảng trị và Quảng bình giống như cái hoàn cảnh triều đình nhà Đường bên Tầu ngày xưa. Vua Minh hoàng bị giặc An lộc sơn đánh, phải bỏ kinh thành Trường an chạy vào đất Thục để lánh nạn. Theo cái nghĩa chữ nho, khi vua đi đến đâu gọi là hạnh. Hạnh Thục là vua đi đến đất Thục. Vì có cái hoàn cảnh hơi giống nhau như thế, cho nên bà Nguyễn nhược Thị mới lấy hai chữ ấy mà đề nhan quyển sách của mình.
Văn của bà Nguyễn nhược Thị viết bằng chữ nôm, văn từ lưu loát, nhưng có nhiều tiếng đọc theo dọng nói ở vùng Nam Trung thì đúng vần, mà đọc đúng vần quốc ngữ, thì sai. Bởì những tiếng có chữ n đứng cuối cùng thường được đọc như tiếng có chữ ng. Thí dụ:
an đọc ra ang,
ăn đọc ra ăng,
xuân đọc ra xuâng,
khoan đọc ra khoang,
hờn đọc ra hờng,
thần đọc ra thầng,
đèn đọc ra thầng,
đèn đọc ra đèng,
quyền đọc ra quyềng v.v...
Lại có một vài câu thơ lạc vận, nhưng đó có lẽ là khi người chép lại viết sai, chứ không phải lỗi tại tác giả.
Vả cái giá trị quyển sách của bà Nguyễn nhược thị là không phải ở câu văn, mà ở những tài liệu của bà đã nhặt được để giúp nhà làm sử sau này. Cũng vì thế mà khi tôi tìm được quyển sách này ở Huế, tôi liền đưa cho trường Bác cổ sao lấy một bản, tôi lại cho ban văn học ở Khai trí tiến đức sao lấy một bản. Còn bản của tôi giữ, thì đem dịch ra làm mấy bản bằng quốc ngữ, phòng khi ở chỗ này mất, thì ở chỗ khác hãy còn. Ấy cũng nhờ vậy mà sau cuộc binh lửa cuối năm Bính tuất (1946) bao nhiêu sách vở của tôi bị đốt cháy, mà còn có người giữ được một bản bằng quốc ngữ. Nay tôi đem chú thích những tiếng khó bằng chữ nho và những tiếng tối nghĩa, rồi chia nguyên văn ra từng đoạn, có đề mục nhỏ ở cạnh rìa, để người ta xem cho dễ hiểu.
Quyển sách này tuy về đường hình thức thì bé nhỏ, nhưng về đường lịch sử, nó có cái giá trị khá lớn, cho nên tôi vui lòng đem in ra đẻ làm một sách bổ quốc sử rất tiện lợi cho những người muốn biết những biến cố ở kinh thành Huế, do một người Việt nam có địa vị đặc biệt đã kể lại, trong thời kỳ người Pháp mới sang lập cuộc bảo hộ ở đất này.
Viết tại Hà thành, tháng quí thu, năm Canh dần (Oct. 1950)
Lệ thần Trần Trọng Kim
Kể từ khoảng cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ thứ XX là khoảng thời gian cái chủ nghĩa thực dân ở bên Âu tây đang lên mạnh. Những nước ở bên Á đông như Trung hoa, Nhật bản, Việt nam và Xiêm đều là những nước có văn hóa tối cổ, có nền chính trị phân minh, có kỷ cương, có chế độ rõ ràng, nhưng vì kém hèn về đường vũ bị, cho nên đều thành ra những miếng mồi của những nước thực dân như nước Anh, nước Pháp, nước Đức, nước Nga, v.v...
Song mỗi một nước trong những nước suy nhược ấy có một hoàn cảnh, một tình thế đặc biệt, cho nên có nước như Nhật bản, chóng thoát khỏi sự uy hiếp của các nước thực dân; Có nước như Trung hoa và Xiam tuy không đến nỗi mất nước, nhưng cũng bị uy hiếp khá nặng; có nước như Việt nam ta thì không những mất cả quyền tự chủ mà còn bị người ta làm tiêu ma mất cả tinh thần…