Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Liên Phong » Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (1909)
Đăng bởi Vanachi vào 14/12/2018 11:21
Thủ Dầu Một phong cảnh thi:
Thủ Dầu Một cảnh rất xinh thay,
Xứ tốt gỗ cây khéo thợ thầy.
Chánh bố công đường cao mát mẻ,
Phú cường hội quán tiếng xưa nay.
Đờn bà nghĩa khí nhiều tay lịch,
Hương chứa thanh cần trữ dạ ngay.
Chùa miễu anh linh phong thuỷ đẹp,
Thanh tươi quả phẩm ít nơi tày.
Dầu Một phong thổ tốt thay,
Gốc xưa chỗ thủ coi rày gỗ cây.
Đổi dời qua đến đời tây,
Quan quân dinh dãy đặt bày nghiêm trang.
Dầu sao im ái tứ bàng,
Bố đường trên nổng lặng trang tư bề.
Sơn lâm tài mộc ề hề,
Ruộng vườn đồng rẫy phủ phê dư dùng.
Trại ghe trại ván sẵn cùng,
10. Sông sâu nước chảy điệp trùng bán buôn.
Nhà khéo cất tốn bạc muôn,
Tiếng đồn thợ thủ rập khuôn kỹ càng.
Thanh hoa đẳng vật khắp ngàn,
Trái cây trà huế nhẫy tràng biết bao.
Nau hươu lắm lúc ra vào,
Đỡ cơn săn bắn tửu hào yến tân.
Tục hay ham chuộng đạo văn,
Trẻ già khẳng khái xa gần thiện lương.
Roi còn gốc trước văn chương,
20. Ăn chơi đờn địch khiêm nhường phong lưu.
Nhiều nhà tích đức đi mưu,
Nhiều tay kiến nghĩa không cưu bạc tiền.
Thường thường trọng đạo thánh hiền,
Quan hôn tang tế lễ liền vãng lai.
Phú cường sung túc lâu dài,
Châu Thành sở tại làng ai sánh tày.
Khuôn viên đàng sá thinh thinh,
Bạn hàng đông đảo xanh quanh chỉnh tề.
Tuy là một chỗ xứ quê,
30. Nhơn hoà địa lợi ví kề Trường An.
Dân đều no ấm thanh nhàn,
Non nhơn nước trí bỉ bàng vui say.
Đình thần phong cảnh tốt thay,
Trong Rạch Bà Lụa ngoài rày đại giang.
Nền cao cấp bước tợ thang,
Trung gian chánh điện nghiêm trang phụng thờ.
Đất linh im ái như tờ,
Bốn mùa hoa quả khắp bờ phương phi.
Xuân kỳ thu báo lễ nghi,
40. Phô trương phẩm tiết đều thì nghiễm tôn.
Chiếm đầu phong thuỷ mấy thôn,
Nguy nga đống võ vĩnh tồn vạn niên.
Chùa Phật bền vững mối giềng,
Tên chùa Hội Khánh lạc quyên của nhiều.
Thiện nam tín nữ dập dìu,
Xúm nhau bồi đắp mĩ miều ngoài trong.
Đờn bà Chợ Thủ có lòng,
Kẻ đa người thiểu của công hội tề.
Bạc ngàn dâu đậu ê hề,
50. Cất ra miễu võ phải bề lịch xinh.
Phụng thờ bà Chúa Thai Sanh,
Sắp bày nghi tiết kỉnh thành nghiêm trang.
Liễu bồ tư chất dịu dàng,
Khuê trung nghĩa hội danh càng rạng danh.
Các nơi thôn xã miễu đình,
Qui mô tuy kém hiển linh cũng nhiều.
Chợ đông người nhóm dập dịu,
Chợ Thủ nguyên trước cựu triều bến xe.
Người nhờ đất chở trời che,
60. Ngày nay đông đảo cảnh khoe mĩ miều.
Tốt thay phong cảnh Lái Thiêu,
Bông hoa cây trái vật đều món ngon.
Cây cao trên nổng thon von,
Bóng im gió mát bon bon tứ bề.
Nhà thờ Thiên Chúa chỉnh tề,
Nhà cha nhà phước phủ phê trong ngoài.
Gội nhuần ơn Chúa quản khai,
Thảy người trong họ ai ai cũng nhờ.
Đồng nam đồng nữ trẻ thơ,
70. Đọc kinh xem lễ tư cơ sẵn sàng.
Lại thêm trường học rõ ràng,
Dạy người câm điếc phép troàn nơi tay.
Khéo bày qui củ rất hay,
Bề trên công đức sánh tày tái sanh.
Điếc câm còn biết học hành,
Lịch thay phong hoá đã đành làm gương.
Tân Thới có tích dị thường,
Ông Huỳnh Công Nhẫn chuyện đương ràng ràng.
Xưa làm thầy pháp tiếng vang,
80. Tứ trong Bưng ở chẳng màng thân danh.
Cọp hùm thuở ấy tung hoành,
Đi đêm thì sợ tai sanh bất kỳ.
Những người tắm tối ra đi,
Tới Bưng xin phép vậy thì Huỳnh Công.
Nước miếng nhổ vào tay không,
Ấy là phép lạ của ông cho về.
Thảy đều an ổn không hề,
Ít năm ông lại về quê đã rồi.
Người thương kẻ nhớ ngậm ngùi,
90. Khẩn cầu nơi mả tới lui dập dìu.
Vái đâu đặng đó rất nhiều,
Rồi đem lễ cúng biết nhiêu là người.
Hương đăng trà quả sốt tươi,
Vào ra kể xiết mấy mươi bộ hành.
Mả kề trảng cát trắng tinh,
Tại cầu Bưng Bố anh linh vô hồi.
Quả nhiên tú khí tài bồi,
Thiên thu huyết thực nhứt đôi nhưởn tiền.
Thiệt là khả tát cữu nguyên,
100. Sanh tiền tử hậu phận riêng giúp đời.
Nổi ra danh giá một nơi,
Phải là đứng giữa đất trời khuôn viên.
Xóm làng chung cộng bạc tiền,
Chở vôi đá tới xây yên đai thành.
Hồn ông mách bảo chẳng đành,
Nay còn vôi đá để xanh quanh đường.
Những nơi tư thục các trường,
Hãy roi dấu trước văn chương ít nhiều.
Thầy thuốc kể biết nao nhiêu,
110. Tứ Quân, Bại Độc, Tiêu Diêu, hốt hoài.
Thập toàn, Bát vị, An thai,
May thầy phước chủ thang bài như chơi.
Lâu lâu lễ tổ thiệp mời,
Đòi tiền thân chủ vốn lời đủ xây.
Trường quan cách dạy chữ tây,
Đã hay mẹo mực lại hay vẻ vời.
Thông minh người sẵn tánh trời.
Lần qua trường lớn cập thời công danh.
Quốc gia dưỡng sĩ hậu tình,
120. Sắm ra có chỗ cho mình hiển vinh.
Dĩa nghiên ngòi viết đua tranh,
Làm nên ấu học tráng hành mới ngoan.
Mười hai tổng trăm dư làng,
Ghe nhà khéo léo lịch sang phải trò.
Xe bò, xe ngựa, tàu đò,
Tứ dân nghệ nghiệp ấm no vững vàng.
Ghe đua êm ái nhẹ nhàng,
Bình Nhâm, Tân Thới hai làng hậu tiên.
Làng Vĩnh Trường, suối Tham Miêng,
130. Đất như bột trắng vỏ viên mịn mà.
Các nơi lò chén gần xa,
Tới chở đất ấy vào ra liền liền.
Thuở xưa có mạch nước tiên,
Uống hay giải cứu bịnh phiền người ta.
Đặt tên là nước Mội Bà,
Cất bên cái miễu thờ bà Linh Sang.
Xã Hợi người tánh quá ngang,
Thấy làm những chuyện dị đoan cũng kỳ,
Ra tay lấp mội ấy đi,
140. Nước tiên bặt mất còn chi mà cầu.
Làng kiện Xã Hợi ở tù,
Bỏ hoang miễu đó mịt mù đã lâu.
Lái Thiêu, Chợ Búng, Bưng Cầu,
Trong ba chợ ấy trước sau đông dầm.
Chơn Thành, Hưng Định, Bình Nhâm,
Vẻn vang nhà chợ cất nhằm chỗ cao.
Tổng Dươn, An Phú, Ông Trao,
Tổng Thu, bốn chợ phú hào biết nhiêu.
Nhà thờ Thủ rất mĩ miều,
150. Trẻ học quốc ngữ mơi chiều a bê.
Có tên Bá Đãnh dòng Lê,
Ngoài thời riêng đặt hiệu đề Huyện Thi.
Người đà âm cảnh từ qui,
Chừ luôn nói lại vậy thì nghe chơi.
Kiếm cung lăm chống chỏi trời,
Tách miền Kinh bắc vào nơi Phú Cường.
Bổn sanh hoanh liệt phi thường,
Bấy năm mưu mật tư lương luận đàm.
Hoá ra chuyện chẳng dễ làm,
160. Tiếc thay xanh vạt mùi cam hơn đường.
Xưa nay thần khí đế vương,
Cượng cầu thì mắc tai ương khốn cùng.
Gương cho những khách gian hùng,
Thảo cha ngay chúa dè lòng kỹ cang.