Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Hán
Đăng bởi Vanachi vào 21/03/2005 00:38, đã sửa 4 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 08/07/2017 13:26
已矣楊大年,
雲樹心懸懸。
回憶登科後,
與君晨夕聯。
相敬且相愛,
遭逢如夙緣。
有時出京路,
空山聞落泉。
有時上高閣,
歌兒鳴素絃。
有時對君飲,
大白浮八延。
有時與論文,
東壁羅簡編。
厄運逢陽九,
斗升非貪天。
予老公亦老,
解組歸田圓。
往來不數得,
一遇三年前。
執手問衰健,
語言殊未愆。
公年少予歲,
予病疑公先。
忽聞公訃至,
驚起皇皇然。
予豈不厭世,
而公爭上仙。
有酒為誰買,
不買非無錢。
有詩為誰寫,
不寫為無箋。
陳蕃榻不下,
伯牙琴亦然。
公既棄予去,
予亦不公憐。
老人哭無淚,
河必強而漣。
Dĩ hĩ Dương đại niên,
Vân thụ tâm huyền huyền.
Hồi ức đăng khoa hậu,
Dữ quân thần tịch liên.
Tương kính thả tương ái,
Tao phùng như túc duyên.
Hữu thời xuất kinh lộ,
Không san văn lạc tuyền.
Hữu thời thượng cao các,
Ca nhi minh tố huyền.
Hữu thời đối quân ẩm,
Đại bạch phù bát duyên.
Hữu thời dữ luận văn,
Đông bích la giản biên.
Ách vận phùng dương cửu,
Đấu thăng phi tham thiên.
Dư lão công diệc lão,
Giải tổ quy điền viên.
Vãng lai bất sổ đắc,
Nhất ngộ tam niên tiền.
Chấp thủ vấn suy kiện,
Ngữ ngôn thù vị khiên.
Công niên thiểu dư tuế,
Dư bệnh nghi công tiên.
Hốt văn công phó chí,
Kinh khởi hoàng hoàng nhiên.
Dư khởi bất yếm thế,
Nhi công tranh thượng tiên.
Hữu tửu vi thuỳ mãi,
Bất mãi phi vô tiền.
Hữu thi vi thuỳ tả,
Bất tả vi vô tiên.
Trần Phồn tháp bất hạ,
Bá Nha cầm diệc nhiên.
Công ký khí dư khứ,
Dư diệc bất công liên.
Lão nhân khốc vô lệ,
Hà tất cưỡng nhi liên.
Thôi thôi bác Dương đã mất rồi,
Mây chiều cây xuân, tình bạn bè nhớ nhau không dứt.
Nhớ lại sau khi thi đỗ,
Sớm tối luôn cùng nhau.
Kính trọng nhau, yêu mến nhau,
Cuộc gặp gỡ như có duyên trời định sẵn.
Có lúc cùng nhau trên con đường lên kinh đô,
Nghe tiếng suối đổ trong núi vắng.
Có lúc cùng nhau lên gác cao,
Nghe con hát gảy đàn.
Có lúc cùng nhau uống rượu,
Chén đại bạch tràn trề tám phương.
Có lúc cùng nhau bàn văn,
Phủ đông bích bày đầy sách vở.
Vận rủi ro gặp hội dương cửu,
Không tham thưng đấu lộc trời.
Tôi đã già, bác cũng đã già,
Cởi dây ấn về với vườn ruộng.
Không qua lại với nhau luôn được,
Lần gặp trước cách đã ba năm.
Cầm tay hỏi thăm khoẻ hay yếu,
Thấy bác nói năng vẫn chưa lẫn cẫn.
Bác ít tuổi hơn tôi,
Mà dường như tôi lại ốm trước bác.
Chợt nghe tin bác qua đời,
Tôi giật mình xiết bao kinh hoàng!
Tôi đâu phải không chán đời,
Mà bác vội tranh lên cõi tiên trước!
Có rượu, mua uống cùng ai?
Không mua, không phải vì không có tiền.
Có thơ, viết cho ai?
Không viết, không phải vì không có giấy
Giường Trần Phồn không hạ xuống,
Đàn Bá Nha cũng đem đốt.
Bác đã bỏ tôi mà đi,
Tôi cũng không thương bác nữa.
Người già khóc không ra nước mắt,
Can chi mà cố gượng cho giàn giụa.
Trang trong tổng số 1 trang (7 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Hùng NT ngày 13/12/2009 05:39
Trong lịch sử văn học Việt Nam, bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến được xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất viết vể đề tài tình bạn.
Bao trùm bài thơ này là nỗi lòng đau xót khôn nguôi của tác giả, trước việc bạn qua đời.
Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng một tiếng than thảng thốt:
Bác Dương thôi đã thôi rồiTin bạn mất đột ngột quá, bất ngờ quá khiến nhà thơ sững sờ. Cách xưng hô ở câu thơ đầu khiến người đọc ít nhiều có thể đoán được đây là mối quan hệ bạn bè giữa những người cao tuổi. Đúng vậy, khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã ngót 70 tuổi. Nỗi đau của người già, hơn nữa lại là một nhà nho luôn quen sống chừng mực, thâm trầm tất phải lặn vào trong lòng, phải xoáy vào trong tim, ít khi phô ra bên ngoài. Bằng cách sử dụng nhiều tình thái từ một cách tự nhiên gợi cảm, nhà thơ không nói trực tiếp đến việc bạn mất, nhưng người đọc ai cũng hiểu. Đây là một cách nói giảm đi, dường như nhà thơ sợ nhắc trực tiếp đến một sự thực phũ phàng. Hơn nữa, cụm từ “thôi đã thôi rồi” còn thể hiện tình cảm nuối tiếc lẫn sự bất lực của nhà thơ trước sự thật đau đớn. Mất bạn, Nguyễn Khuyến thấy không gian rộng lớn dàn trải, “nước mây” đâu cũng thấm đậm một nỗi buồn thầm lặng khuôn nguôi: “Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta!
Cầm tay hỏi hết xa gần,Người đọc đủ hình dung ra hình ảnh thật xúc động của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê. Nhà thơ ân cần hỏi han bạn mình đủ điều và mừng rỡ khi thấy bạn tuổi đã cao, song vẫn minh mẫn, tỉnh táo. Đây chính là nét đáng quý trong con người Nguyễn Khuyến, dù đã có khi đạt tới đỉnh cao danh vọng, tâm hổn nhà thơ vẫn bình dị, gần gũi, thương mến vợ con, bè bạn, xóm giềng... Chẳng cứ đối với Dương Khuê, tình cảm nhà thơ đối với Bùi Văn Quế (tức ông nghè Châu Cầu) cũng đằm thắm không kém. Nhân nước lụt, nhà thơ hỏi thăm bạn thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ tựa hồ như một nhà nông chính cống thăm hỏi người ruột thịt cùng cảnh ngộ:
Mừng rằng bác vẩn tinh thần chưa can
Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu,Thế rồi, Cụ Tam Nguyên tự xưng “em” với ông bạn Châu Cầu và kể chuyện vể mình một cách hóm hỉnh, dí dỏm:
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con rày lớn bé?
Vài gian nếp cái ngập nông sâu?
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,Tình cảm chân thành, nồng hậu, chu đáo, lời lẽ mộc mạc... là những yếu tố quan trọng làm cho những bài thơ viết về tình bạn của Nguyễn Khuyến lay động trái tim người đọc. Ở bài Khóc Dương Khuê, tình cảm này tập trung ở phần cuối.
Thung thăng chiếc lá rượu lưng bàu
(Lụt, hỏi thăm bạn)
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,Nhưng tiếc rằng điều phi lí, điều trái lẽ thường ấy đã là một sự thật. Chính vì phi lí nên sự đau xót, nuối tiếc càng được nhân lên gấp bội:
Tôi lại đau trước bác mấy ngày,
Làm sao bác vội về ngay.
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rờiCâu thơ buông ra một cách tự nhiên, khó có thể thấy đâu là kĩ thuật đặt câu dùng từ nhưng đã diễn đạt thành công nỗi đau to lớn ập đến bất ngờ.
Rượu ngon không có bạn hiền,Ở đây nghệ thuật điệp từ đã mang lại hiệu quả đáng kể. Trong ba dòng thơ tổng cộng 21 chữ, chữ “không” xuất hiện đến 6 lẩn, diễn tả tài tình tâm trạng trống vắng ghê gớm của con người. Đổng thời, cách kết cấu trùng điệp ở những câu thơ nói trên tạo được cảm giác như nghe tiếng khóc nức nở không dứt.
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai ai biết mà đưa?
Tuổi già hạt lệ như sương,Sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời đen bạc nay sắp trở thành người “cổ lai hi” (xưa nay hiếm), cụ Yên Đổ làm gì còn đủ nước mắt mà khóc bạn? Nỗi đau không tràn ra ngoài được, ắt phải lặn âm thầm vào bên trong trái tim nhà thơ. Nhà thơ nói là mình không khóc, nhưng dường như hai câu kết thấm ướt nước mắt nóng hổi xót thương!
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
Gửi bởi Vanachi ngày 04/11/2013 05:15
Có 2 người thích
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời;
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 08/07/2017 13:55
Nguyễn Khuyến (1835-1909) để lại khoảng 800 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong đó có ngót một trăm bài thơ viết về tình bạn. Có bài như Bạn đến chơi nhà thì hầu như ai cũng biết. Viết về Dương Khuê (1839-1902) bạn chí thân của mình, Nguyễn Khuyến đã có bốn bài thơ chữ Hán. Riêng bài thơ thứ tư Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài Khóc Dương Khuê.
Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã phát triển thành bạn tri âm tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiết như vậy. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm có 38 câu thơ.
Mở đầu bài thơ là một tiếng than, tiếng nấc đau đớn:
Bác Dương thôi đã thôi rồi,Một sự thảng thốt xót thương cất lên, tưởng như bất ngờ bị đánh rơi mất một cái gì vô cùng quý báu. Nhóm từ “thôi đã thôi rồi” thay cho khái niệm “đã mất”, “đã chết”, “đã qua đời” v.v... một lối nói bình dị, làm giảm bớt đi nỗi đau đớn ghê gớm đối với tuổi già. Theo cách tính tuổi của các cụ ngày trước thì Dương Khuê mất lúc 63 tuổi, khi đó Nguyễn Khuyến đã 68 tuổi rồi. Đúng là tiếng khóc bạn của những bậc cao niên. Hai chữ “nước mây” chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, xa nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy khi gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi. Hình ảnh “nước mây” được liên kết với các từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” diễn tả một trời thương xót, một không gian cách trở bao la, âm dương đôi đường, buồn đau, nặng trĩu.
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước đến sau” thể hiện một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của nhà thơ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn tâm đầu ý hợp, phải là những tao nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ như vậy.
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời.
Có khi từng gác cheo leo,Cầm xoang nghĩa là cung đàn, giọng hát, “Từng gác cheo leo” như còn gợi lại cảm giác ngây ngất trên lầu cao của đôi bạn tri âm sành điệu. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê rất sành nghệ thuật hát ả đào, đã sáng tác nhiều hài hát nói nổi tiếng.
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,Chén quỳnh tương là chén ngọc, một cách nói sang trọng. “Rượu ngon cùng nhắp” và hình ảnh “âm ắp bầu xuân” như còn giữ lại một tình bạn trong hương vị nồng nàn, hứng khởi. Nhắc tới chuyện bàn soạn văn chương thì đầy ắp những sách vở, điển cố.
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi hàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích điển phần trước sau.
Bác già tôi cũng già rồi,Chữ “rồi” vần với ba chữ “thôi” liên tiếp như một tiếng thở dài, tự an ủi mình, như muốn quên đi thật nhanh những điều bất đắc chí. Không nỡ, không muốn nhắc đến nữa mới là bạn bè tâm giao!
Biết thôi, thôi thế, thì thôi, mới là.
Muốn đi lại, tuổi già thêm nhác,“Tinh thần chưa can” ý nói sức khoẻ vẫn bình thường, tinh thần vẫn sáng suốt. Thế mà bạn đột ngột qua đời. Hình ảnh “chân tay rụng rời” cực tả nỗi đau đớn, bàng hoàng không kể xiết. Đoạn thơ sau đây thể hiện rất đúng, rất sâu sắc tâm lí và tình cảm người già khí được tin bạn mất:
Trước ba năm gặp bác một lần,
Cấm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẩn tinh thần chưa can.
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,Giọng thơ kể lể, tự tình. Trong lời than thấm đầy lệ. Các tiếng “tôi” và “bác” xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai linh hồn đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên gấp bội.
Tôi lại đau trước bác mấy ngày.
Làm sao bác vội về ngay?
Chợt nghe tôi bổng chân tay rụng rời!
Ai chẳng biết chán đời là phải,Sau chữ “chẳng” xuất hiện liên tiếp 5 chữ “không” gợi tả cái trống vắng, cái cô đơn của nhà thơ, của cảnh già. Kẻ đi xa và người ở lại cùng chung nỗi niềm tâm sự “chán đời là phải”. Nhà thơ kín đáo bộc lộ thái độ đối với thời cuộc trước sau không thay đổi. Như đã từng thổ lộ:
Sao vội vàng đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Sách vở ích gì cho buổi ấyCho đến trước lúc qua đời, ông vẫn không quên trăng trối con cháu:
Áo xiêm nghĩ tại: thẹn thân già.
(Ngày xuân dặn các con)
Đề vào mấy chữ trong bia,Bạn mất đột ngột, nỗi thương tiếc, đau xót làm tê tái cả lòng. Sống trong cô đơn ngày thêm bơ vơ sầu tủi. Cuộc đời mất hết ý nghĩa: không muốn uống rượu, không thiết ngâm thơ, gian nhà và tâm hồn trở nên trống vắng, trơ trọi. Còn đâu nữa bạn tri âm tri kỉ?
Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
(Di chúc)
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,Lời than khóc trở nên xót xa khi nhà thơ nhắc lại điển tích Tử Kỳ - Bá Nha và Trần Phồn - Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở nên “hững hờ”. Tiếng đàn cũng “ngẩn ngơ” mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái khi bạn thân qua đời. Khi còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi “dặm khách”, cùng “lựa chiều cầm xoang”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn”... Lúc bạn qua đời chẳng còn người tri âm tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng lui tới thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất sâu sắc, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn cô đơn của mình.
Viết đưa ai, ai biết mà đưa
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm hoạn nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết “lấy nhớ làm thương”. Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn câu kết đã “chứa chan” nước mắt đau xót. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở - Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn đạt trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho đất nước và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,... Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài “Khó Dương Khuê” lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở nên thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than,lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã thể hiện nghệ thuật vừa bình di, vừa điêu luyện.
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 08/07/2017 13:57
Trong nền thơ hơn một nghìn năm của dân tộc Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Khuyến có một vị trí thật vẻ vang. Ông là nhà thơ của những bài thơ Việt Nam đích thực, những bài thơ mà ở đó, những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ Việt Nam thuần khiết, giản dị và đẹp đẽ. Trong những bài thơ ấy, cần phải nói (tên một bài thơ không mấy ai không biết: bài Khóc Dương Khuê).
Xét cho cùng, tình bạn giữa hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn không phải là một tình bạn thật hoàn toàn như ý. Tuy đỗ cử nhân cùng khoa thi với Nguyễn Khuyến, rồi đỗ tiến sĩ, cùng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng sau năm 1884, năm đất nước thật sự mất vào tay thực dân Pháp, Dương Khuê lại không có được cái chí như Nguyễn Khuyến. Không cáo quan về làng, Dương Khuê tiếp tục làm quan cho triều đình tay sai thực dân cho đến tận lúc qua đời ở tuổi 64 (1902).
Tuy vậy, nói thế là để nhìn rõ hết mọi chuyện. Người Việt Nam ta vẫn có câu: nghĩa tử là nghĩa tận. Cái chết đột ngột của Dương Khuê đã thật sự li: một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Lúc ấy, quên hết mọi điều, ông chỉ còn biết một điều duy nhất: ông đã mất một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quí giá không thế lấy gì thay thế được. Lúc ấy, tự đáy lòng, từ nột tình bạn mà hình như chính ông cũng không thể đo lường hết chiều sâu, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:
Bác Dương thôi đã, thôi rồi,Hầu như không có một chút vãn chương chữ nghĩa nào trong hai dòng thơ trên, đặc biệt là dòng thơ thứ nhất. Chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành, trọn vẹn, tự mình thể hiện ra thành lời. Hai tiếng “thôi” dân dã và tự nhiên, cứ như bật lên từ lời nói của một người dân quê bình dị nào đó. Đặt câu thơ này vào trong hoàn cảnh xã hội mà sự “cao nhã” luôn luôn được coi là một yêu cầu hàng đầu của văn chương, ta càng thấy ở đây sự chân được nhà thơ coi trọng đến chừng nào. Nói đến cái chết, ông không dám động đến từ “chết”. Trời đất cao dày ơi lẽ nào chuyện ấy đã đến thật rồi sao? “Thôi đã... thôi rồi”! Thế là hết! Thật thế rồi! Một kẻ quyền quí ngày xưa khi lỡ tay làm rơi mất viên ngọc lưu li độc nhất vô nhị trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ kêu lên đau đớn đến như thế là cùng. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được.
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,Đó là kỉ niệm khi hai người vừa mới lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ. Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình, Hà Đông, hai người vốn chẳng quen biết gì nhau. Thế mà, cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn đã bắt đầu gắn bó từ đây. Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyến sao mà bình dị đến thế, nôm na, thân mật đến thế! Nào là “lúc sớm hôm”, rồi là “tôi bác”, với những “cùng nhau”... Nhà thơ cũng xác định cái nhìn đầu tiên của mình về người bạn: đó là lòng kính yêu trọn vẹn, “kính yêu từ trước đến sau”.
Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,Kỉ niệm giừa đôi bạn như thế quả là rất nhiều, rất đậm. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thư như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi. Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người sẽ hỏi: nhà thơ Nguyễn Khuyến mà cũng đi hát ả đào sao? Thi có gì đâu mà nhà thơ không đi hát ả đào! Hát ả đào là một thú vui trong xá hội phong kiến. Có lúc thú vui này bị người ta lợi dụng (thì trên đời thiếu gì điều tốt đẹp bị người ta lợi dụng). Tuy vậy, đối với đa số nhà Nho, đó lại là nơi để thưởng thức cái đẹp của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, cũng là nơi di dưỡng tâm hồn sau những tháng ngày gò mình trong khuôn khổ của chốn công danh, vốn được sáng tác để cho các đào nương hát lên đó sao? Nguyễn Khuyến không có những bài thơ như vậy, nhưng rõ ràng là ông đã không thể quên “thứ vui con hát”, bởi đó là thú vui được “lựa chiều cầm xoang”, trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát.
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,Nói về việc cùng bạn uống rượu mà nhà thơ dùng từ “nháp”, lại “cùng nháp” thì thật chính xác và tinh tế, bởi đây là việc uống rượu của người “uống cho vui”, chứ không phải kiểu uống của các bợm rượu. Nhà thơ có lần đã tự nói về khả năng uống rượu của mình:
Chén quỳnh tương ăm áp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấyChén các cụ dùng uống rượu ngày xưa là loại chén rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Nói “nhấp” tức là uống từng hớp nhỏ, như chỉ vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức cái vị đậm, cái mùi thơm của rượu. Rượu uống chỉ như thế nhưng lại “ăm áp bầu xuân”. Bầu xuân này là bầu rượu và cũng là “bầu thơ”, bầu rượu đầy cho bầu thơ càng thêm lai láng. Hai tiếng “ăm ắp” mà nhà thơ dành cho bầu xuân” thật gợi cảm và sảng khoái. “Người thanh cái tiếng cũng thanh”, đến cách chơi cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải bất kì ai cũng có được cái “rượu ngon cùng nhấp” ấy, nhất là cái căm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
(Thu ẩm)
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạnNhững câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc lên nghe thật buồn bã, ngao ngán. Nói “buổi dương cửu” để chỉ thời kì loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người phải trải qua. Không làm gì được trước vận hạn ấy, nhà thơ chỉ còn một cách lựa chọn là rời bỏ công danh, chẳng còn dám tham cái lộc trời “thăng đấu” của kẻ làm quan. Nhà thơ nói như một kẻ an phận mà nghe ra thật đau đớn. Ông cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ “thôi” trùng diệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: Biết thôi- thôi - thế thì thôi. Đúng là tâm trạng của nhà thơ khi cáo quan về làng và cho đến cả những năm sau này: đau buồn trước cảnh nước mất nhưng không có thể làm gì cho đất nước ngoài việc từ quan để khỏi làm việc cho kẻ thù.
Phận đấu thăng chẳng dám than trời
Bác già, tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhácXét về mặt văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là những câu thơ thật mới lạ sắc sảo, bởi những câu thơ ấy sao mà nôm na bình thường, nào la “tuổi già thèm nhác”, rồi lại “hỏi hết xa gần”, với lại “tinh thần chưa can”, cứ như lời lẽ cua một ông lão quê mùa nào đó ở vùng đất Hà Nam. Thì đúng vậy, Nguyễn Khuyến có làm văn chương đâu, ông chỉ bộc lộ nỗi niềm của mình! Nhà thơ còn tự mình lí sự với mình:
Trước ba năm gặp bác một lần
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bácChỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có kiểu lí sự như vậy. Như thế có khác gì nói rằng: tại sao bác lại chết trước tôi nhỉ? Người chết trước lẽ ra phải là tôi chứ? Chính từ những lí sự này, mấy tiếng cuối cùng của đoạn thơ nổi lên thật chân thành và ai oán:
Tôi lại đau trước bác mấy ngày
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!Trước nỗi đau dã là sự thật, nhà thơ đành chấp nhận nồi đau và càng thấy điều này là thật vô lí:
Ai chẳng biết chán đời là phảiCái chết là một quy luật không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn tìm thấy sự vô lí: cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó cướp mất của ông một người bạn hiền và như thế, cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của mình, nghe thật giản dị mà vang lên nhơ một chân lí về tình bạn đích thực ở đời:
Vội vàng chi đã mải lên tiên
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Rượu ngon không có bạn hiềnTrong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã.
Không mua không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viếtLắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ,rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai - ai biết - mà đưa” cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Giường kia treo cũng hững hờCó thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thưừng làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chàng giúp được gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ởNhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu ràng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Đất Văn Lang ngày 22/01/2019 15:18
Bác Dương! Ối thôi rồi!
Khóc bạn, dạ bồi hồi.
Nhớ năm xưa cùng đỗ,
Gắn bó bác với tôi.
Thân thương lẫn tôn kính,
Duyên gặp gỡ trên đời.
Đường vào kinh năm ấy,
Tiếng suối reo lưng đồi.
Có khi trên gác trọ,
Vài ca nữ mua vui.
Có khi trong quán rượu,
Chén lớn uống quên thôi.
Có khi bên bàn sách,
Câu thơ xét chọn lời.
Vận nước cơn bối rối,
Đấu gạo dám tham trời.
Tôi bác cùng lớn tuổi,
Trả ấn về vườn thôi.
Gặp nhau chẳng được mấy,
Mới ba năm vừa rồi.
Cầm tay nhau thăm hỏi,
Nói năng chưa lôi thôi.
Kể tuổi, tôi hơn bác,
Kể bệnh, bác sau tôi.
Cớ sao bác đi trước?
Chợt nghe tôi rụng rời.
Tôi vốn đâu ham sống,
Mà bác tranh lên trời.
Rượu mua làm chi nữa,
Dẫu có tiền cũng thôi.
Thơ chằng buồn cầm bút,
Bỏ giấy trắng lẻ loi.
Đàn treo đâu người gảy,
Giường trống nằm đơn côi.
Bác chẳng lời giả biệt,
Bỏ lại một mình tôi.
Tuổi già như hạt móc,
Nuốt lệ khóc chia phôi.
Gửi bởi Đất Văn Lang ngày 22/01/2019 15:20
Thôi rồi lão Dương ôi
Mây nước buồn chia phôi
Nhớ thuở cùng vinh hiển
Sớm chiều lão với tôi
Thương nhau mà lễ nghĩa
Gặp gỡ bởi duyên trời
Nhớ lúc lên kinh nhỉ
Suối ngàn róc rách trôi
Rồi khi trèo gác thượng
Ca nữ, giọt đàn rơi
Có hôm cùng chuốc rượu
Tám chén mà chưa thôi
Lại buổi cùng thi phú
Tường đông sách chẳng rời
Vận rủi thời dâu bể
Đấu sao đựng nổi trời
Bác già tôi cũng lão
Bỏ ấn về quê thôi
Qua lại nào như ý
Ba năm trước lão ơi
Cầm tay thăm sức khoẻ
Thấy lão còn rạch ròi
Chung khoá mà ít tuổi
Lão còn mạnh hơn tôi
Chợt nghe lão mất sớm
Mãi thẫn thờ khôn nguôi
Tôi nào ham sống nữa
Sao vội tranh phần rồi?!
Nào phải không tiền rượu,
Đong rồi ai cạn bôi!
Nào phải không giấy mực,
Thơ rồi ai hiểu tôi!
Giường Trần treo xó gác,
Đàn Bá quẳng chân đồi...
Lão bỏ tôi đi nhé,
Tôi giận lão cho coi!
Tiếng khóc già khô lệ,
Can gì chắt giọt rơi.
Gửi bởi Trương Việt Linh ngày 12/11/2021 12:26
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Trương Việt Linh ngày 22/11/2021 07:49
Bác Dương ơi! bác Dương ơi!
Cỏ mây man mác ngậm ngùi xót xa.
Nhớ từ lúc sau ta thi đỗ,
Sớm tối cùng gắn bó bên nhau.
Kính yêu một dạ trước sau,
Tình thâm như thể hẳn đâu duyên trời.
Nhớ những lúc vui chơi thành nội,
Chốn non xanh vời vợi suối reo.
Có khi lên chốn tầng cao,
Tiếng tơ tiếng trúc xiết bao vui vầy.
Có những lúc cùng vây bàn tiệc,
Cùng luận bàn bao việc văn chương.
Bao nhiêu sách vở tây đông,
Đến khi gặp cảnh dương cùng rủi ro.
Nghĩ tới lộc trời cho chẳng muốn,
Tôi đã già Bác cũng già theo.
Ruộng vườn một sớm về thôi,
Cáo quan từ ấy lần hồi ít thăm.
Ba năm trước một lần gặp gỡ,
Cầm tay nhau thăm hỏi ân cần.
Nói năng Bác vẫn còn thông,
Tuổi tôi so Bác có phần già hơn.
Tôi già yếu nên ôm bệnh trước,
Chợt nghe tin Bác bước đi rồi.
Kinh hoàng chua xót than ôi,
Giật mình trở dậy bời bời ruột gan.
Đời vốn chẳng có màng chi nữa,
Cõi tiên kia lần lựa giành chi.
Rượu mua biết uống cùng ai,
Không mua nào có phải đâu không tiền.
Thơ muốn viết không tìm người gửi
Nào phải đâu không giấy viết thơ.
Giường kia treo mãi hững hờ,
Đàn kia bặt tiếng ngẩn ngơ cõi lòng.
Bác ra đi bỏ mình tôi lại,
Tôi ngậm ngùi khôn nỗi xót thương.
Tuổi già hạt lệ khô khan
Lấy đâu nước mắt nhỏ tuôn đôi dòng.