珠江裴尚書京回,欲訪不果詩以寄其二

盡日啣杯懶捲簾,
又聞公至喜杯添。
珠江水闊三流合,
桂嶺晴開一頂尖。
梅驛此回無雁足,
鼎湖幾度失龍髯。
吾州幸有名公在,
扶杖將來卜躍潛。

 

Châu Giang Bùi thượng thư kinh hồi, dục phỏng bất quả thi dĩ ký kỳ 2

Tận nhật hàm bôi lãn quyển liêm,
Hựu văn công chí hỉ bôi thiêm.
Châu giang thuỷ khoát tam lưu hợp,
Quế lĩnh tình khai nhất đỉnh tiêm.
Mai dịch thử hồi vô nhạn túc,
Đỉnh hồ kỷ độ thất long nhiêm.
Ngô châu hạnh hữu danh công tại,
Phù trượng tương lai bốc dược tiềm.

 

Dịch nghĩa

Suốt ngày nhắp chén, ngại cuốn rèm lên,
Nghe tin ông đến, chén mừng lại thêm.
Sông Châu rộng là do ba nguồn hợp vào,
Núi Quế tạnh trời nổi rõ một ngọn nhọn hoắt.
Độ này trạm mai không có dấu chim nhạn,
Mấy lần hồ Vạc đã mất râu rồng.
Vùng ta nay có tên ông còn lại,
Chống gậy định tới bói việc bay nhảy hay lặn chìm.


Rút từ Quế Sơn tam nguyên thi tập (A.3160).


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Suốt buổi nâng ly ngại cuốn rèm,
Nghe tin ông đến lại mừng thêm.
Sông Châu dòng mở, ba nguồn hợp,
Núi Quế trời quang, một ngọn xiên.
Chân nhạn trạm mai đà vắng bặt,
Râu rồng hồ Vạc chẳng còn nguyên.
Vùng ta còn lại tên ông đó,
Chống gậy bói xem nổi hoặc chìm.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Suốt ngày nhắp chén, ngại nâng rèm,
Nghe nói ông về, lại uống thêm.
Núi Quế trời quang đâm một ngọn,
Sông Châu nước rộng hợp ba nguồn.
Trạm mai, chân nhạn hình đâu thấy,
Hồ Vạc, râu rồng nét chẳng nguyên.
May nhỉ vùng ta ông rạng tiếng,
Bói xem một quẻ nổi hay chìm.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời