15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ca trù (hát nói)
Thời kỳ: Cận đại
3 bài trả lời: 3 bản dịch

Đăng bởi Vanachi vào 05/04/2006 08:27, đã sửa 3 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 22/08/2022 23:14

裴園舊宅歌【裴園歌】

裴園吾舊宅,
四十年今日賦歸來。
松松菊菊梅梅,
飄然有丘壑林泉之逸趣。
彭澤素琴吟舊句,
溫公尊酒樂餘春。
東風回首淚沾巾,
渺茫際滄海桑田經幾度。
君莫嘆魯侯之不遇,
鬅鬙白髮復何為?
歸去來兮胡不歸!

 

Bùi viên cựu trạch ca [Bùi viên ca]

Bùi Viên ngô cựu trạch,
Tứ thập niên kim nhật phú quy lai.
Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,
Phiêu nhiên hữu khâu, hác, lâm, tuyền chi dật thú.
Bành Trạch tố cầm ngâm cựu cú,
Ôn công tôn tửu lạc dư xuân.
Đông phong hồi thủ lệ triêm cân,
Diểu mang tế, thương hải tang điền kinh kỷ độ,
Quân mạc thán Lỗ hầu chi bất ngộ.
Bằng tăng bạch phát phục hà vi?
Quy khứ lai hề, hồ bất quy!

 

Dịch nghĩa

Vườn Bùi, nơi nhà cũ của ta.
Đã bốn mươi năm, ngày nay mới được trở về.
Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,
Phơi phới có thú vui nhàn dật nơi núi, khe, rừng, suối.
Bành Trạch gảy cây đàn không dây, ngâm câu thơ cũ,
Ôn Công nâng chén rượn vui với ngày xuân còn lại.
Ngoảnh đầu nhìn gió đông, giọt lệ đầm khăn.
Trong khoảng mênh mông trải bao cuộc nương dâu bãi bể.
Anh đừng than không gặp được Lỗ hầu,
Tóc bạc bù xù còn biết làm gì được?
Đi về thôi, sao không về đi?


Rút từ Yên Đổ tiến sĩ thi tập (VHv.1864), Quế Sơn Tam nguyên thi tập (A.3160), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề trong Quế Sơn Tam nguyên thi tập chép là Bùi viên ca.

Vườn Bùi nay là thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ, nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, là quê hương Nguyễn Khuyến.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Khuyến

Vườn Bùi chốn cũ,
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây.
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây,
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế.
Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế,
Ôn công rượu nhạt chuốc chiều xuân.
Ngọn gió đông ngảnh lại lệ đầm khăn
Tính thương hải tang điền qua mấy lớp?
Ngươi chớ giận Lỗ hầu chẳng gặp.
Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi
Muốn về sao chẳng về đi?


Bản dịch của chính tác giả, rút từ Quế Sơn Tam nguyên thi tập (A.3160), Quế Sơn thi tập (A.469).

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Vườn Bùi chốn cũ
Bốn mươi năm, nay mới trở về đây
Tùng tùng cúc cúc mai mai
Chốn gò núi suối rừng xem cũng thú
Bành Trạch ôm đàn ngâm thơ cũ
Ôn Công chuốc rượu thưởng tàn xuân
Ngọn gió đông ngảnh lại lệ đầm khăn
Cõi mờ mịt bể dâu qua mấy lớp
Người chớ giận Lỗ Hầu sao chẳng gặp
Nay phơ phơ đầu bạc mà chi
Muốn về thôi sớm về đi

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Vườn Bùi, chốn cũ,
Bốn mươi năm, mới được về nay.
Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,
Phơi phới thú vui nhàn nơi khe suối.
Bành Trạch ngâm thơ không dây đàn gảy,
Ôn Công rượu nâng chén vui với xuân tàn.
Ngoảnh đầu nhìn gió, giọt lệ tràn.
Trong khoảng đất trời trải bao bãi bể nương dâu.
Anh đừng than không gặp được Lỗ hầu,
Tóc bạc bù xù còn biết làm gì?
Về thôi, sao không về đi?

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời